Cà pháo | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo) | Solanales |
Họ (familia) | Solanaceae |
Chi (genus) | Solanum L., 1771 |
Loài (species) | S. macrocarpon L. |
Danh pháp hai phần | |
Solanum macrocarpon L. | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cà pháo (danh pháp khoa học: Solanum macrocarpon, còn được biết đến với các tên khác như: Solanum dasyphyllum, Solanum melongena L. var. depressum Bail., Solanum undatum Jacq. không phải Lam., Solanum integrifolium Poiret var. macrocarpum) là một loại cây lâu năm thuộc họ Cà (Solanaceae), nhưng thường được trồng như cây một năm để thu quả làm rau trong ẩm thực toàn cầu. Phân loại thực vật học của loài này vẫn còn tranh cãi, nhưng đa số tài liệu coi nó là một biến thể của cà tím (danh pháp khoa học: S. melongena), một số khác xem đây là một loài riêng biệt.
Mô tả
Cây cà pháo là cây thân thảo, có thể mọc thẳng hoặc leo, cao đến 1,5 m với thân màu tím đen, gỗ hóa ở gốc. Lá hình mác, dài từ 10-30 cm và rộng từ 4-15 cm, hoa có màu từ trắng đến tím. Quả hình cầu, hơi nén, đường kính 5-6 cm và chiều cao 7-8 cm, có màu từ trắng, vàng cam đến tím, chứa nhiều hạt nhỏ. Cả quả và lá đều có thể dùng làm thực phẩm. Cây có chu kỳ phát triển lâu dài, lá đầu tiên có thể thu hoạch sau 40-50 ngày, quả có thể thu hoạch sau 80-100 ngày.
Phân bố
Cà pháo được trồng rộng rãi ở các quốc gia Đông Nam Á và Đông Á, và có nhiều tên gọi khác nhau: 'garden egg', 'aubergine', 'Thai brinjal' (tiếng Anh); 'melongene', 'bringelle' (tiếng Pháp); 'Thailändische Aubergine', 'Eierfrucht' (tiếng Đức); 'berengena', 'berenjera' (tiếng Tây Ban Nha); 'kayan' (tiếng Myanma); 'ai kwa' (tiếng Trung); 'abergine', 'eierplant' (tiếng Hà Lan); 'talong' (tiếng Philippines); 'terong' (tiếng Mã Lai); 'makeu-a kaou', 'makeu-a-keun' (tiếng Thái)... Cũng có thể thấy loài này trồng ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Phi, mặc dù một số tài liệu coi đây là loài cà khác.
Trồng trọt
Cà pháo có thể được trồng ở độ cao tối đa 600 m. Tại Việt Nam, có thể trồng cà pháo theo hai vụ: vụ sớm gieo hạt từ tháng 7 đến tháng 8, thu hoạch vào tháng 11 đến tháng 12; vụ chính gieo hạt từ tháng 11 đến tháng 12, thu hoạch vào tháng 3 đến tháng 5. Quy trình gieo trồng như sau:
- Ươm hạt: sử dụng đất tơi xốp, giàu mùn và dinh dưỡng, có khả năng giữ ẩm tốt và thoát nước hiệu quả. Cày bừa nhỏ đất, loại bỏ cỏ dại, làm luống bằng phẳng rộng khoảng 1m, cao 20–25 cm. Trộn phân chuồng hoai mục đều trên mặt luống (3–4 kg/m²). Do vỏ hạt cà dày và cứng, cần ngâm hạt trong nước (nước nóng 54 °C trong 10 phút hoặc nước thường trong 20–30 giờ) trước khi gieo. Lượng hạt giống gieo là 2g/m², phủ một lớp rơm rạ mục hoặc trấu mỏng lên mặt luống. Sau khi cây mọc 1–2 lá, nếu quá dày, tỉa bớt cây yếu, bị sâu bệnh, giữ khoảng cách 4–5 cm giữa các cây. Tưới nước phân chuồng nồng độ 10%, sau đó tưới nước sạch để tránh cháy lá cây con. Khi cây con có 5–6 lá (vụ sớm: sau 20–25 ngày; vụ chính: sau 25–30 ngày) thì đem trồng.
- Trồng cây: trồng trên đất tơi xốp, có pH từ 6,5–7, giàu mùn, thuận tiện tưới và thoát nước, cày ải và bừa kỹ, loại bỏ cỏ dại. Trước khi bừa lượt cuối, dùng vôi bột (khoảng 30 kg/sào) rắc đều trên mặt ruộng để xử lý đất. Tạo luống rộng 1,2 m, cao 20–30 cm, rãnh rộng 25–30 cm. Mật độ trồng khoảng 50 x 60 cm (28.000–30.000 cây/ha).
- Phân bón: mỗi sào Bắc Bộ bón khoảng 900 kg phân chuồng ủ mục; 1,5 kg đạm urê; 10 kg supe lân; 1 kg kali sunphát. Bón lót một nửa lượng phân trên, tạo hốc sâu 15 cm, trộn phân với đất trước khi trồng; bón thúc sau khi trồng 7–10 ngày, và sau mỗi lần thu hoạch quả để duy trì sự ra hoa liên tục.
- Chăm sóc: sau khi trồng, cần tưới nước đầy đủ để duy trì độ ẩm, độ ẩm đất lý tưởng là 80%. Nước phân hữu cơ cần được ủ trước khi tưới.
Những khu vực nổi tiếng với cà pháo chất lượng cao bao gồm huyện Nghi Lộc (Nghệ An), Láng (Hà Nội), Cái Sắn (huyện Tân Hiệp, Kiên Giang), huyện Lục Yên (Yên Bái)...
Thành phần dinh dưỡng
Thành phần | Quả tươi | Cà muối chua |
---|---|---|
Nước | 92 g | 77 g |
Protein | 1 g | 1,2 g |
Chất béo | 0,2 g | - |
Chất xơ | 0,8 g | 1,9 g |
Phosphor | 2 mg | - |
Calci | 11 mg | - |
Khoáng chất | 0,5 g | - |
Acid Lactic | - | 1,8 g |
Ca-lo | 24 | 13 |
Cà pháo còn chứa các khoáng chất như lân, magiê, kali, natri, lưu huỳnh, sắt, mangan, kẽm, đồng (kim loại); I-ốt; caroten (tiền vitamin A); các vitamin B1, B2, C, P và chất nhầy.
Sử dụng
Quả cà pháo khi chín vừa có thể được chế biến thành các món nấu, chẳng hạn như cà ri. Lá non có thể dùng tươi, luộc hoặc nấu ăn.
Tại Việt Nam, quả cà pháo chủ yếu được sử dụng trong ẩm thực, phổ biến nhất là món cà muối (muối nén hoặc muối nước), trong đó có món 'cà ngâm muối'. Tuy nhiên, nhiều người tin rằng cà pháo có thể gây ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, vì vậy thường tránh ăn cà khi cơ thể đang yếu hoặc bị bệnh. Cách muối cà như sau:
- Chuẩn bị: sau khi thu hoạch, trải cà ra ngoài nắng phơi khoảng 3 - 4 tiếng (tuỳ vào cường độ nắng) để quả se mặt. Dùng dao mỏng và sắc cắt bỏ cuống hoặc để lại khoảng 1/2 cm rồi nhẹ nhàng cạo phần vỏ xanh của cuống. Cần cẩn thận khi cắt cuống để không làm dập quả, tránh làm cà bị thâm, hỏng khi muối.
- Muối nén: phương pháp truyền thống phổ biến ở miền Bắc. Dùng vại hoặc lu miệng rộng để muối cà, mỗi lớp cà rải một lớp muối. Đặt một tấm mê rổ dày hoặc tấm gỗ mỏng lên lớp cà trên cùng và đặt vật nặng (tảng đá, cối đá nhỏ,...) để nén chặt. Đậy kín nắp và để trong khoảng 15 - 20 ngày. Cà muối theo cách này có thể bảo quản lâu dài.
- Muối nước: đun sôi và làm nguội nước muối (nồng độ khoảng 30 - 70 g muối trong 1 lít nước). Cho cà vào hũ hoặc vại miệng rộng, dùng vài nan tre mỏng hoặc tấm mê rổ hoặc một phiến nặng vừa đủ để đè cà xuống, đảm bảo nước muối cao hơn mặt cà khoảng 5 cm. Nếu mực nước muối giảm, bổ sung thêm nước muối để duy trì mực nước. Nếu cà nổi lên khỏi mặt nước, chất tannin trong quả sẽ bị oxy hoá, cà sẽ bị thâm và dễ hỏng. Có thể thêm tỏi cắt lát mỏng và gừng cắt sợi (khoảng 50 g mỗi loại cho 1 kg cà). Nếu sau 3 - 4 ngày có lớp váng trên mặt nước muối, nước muối chưa đủ mặn, cần thay nước muối mới có độ mặn cao hơn. Cà muối theo cách này có thể ăn được sau 10 ngày (tuỳ vào độ mặn của nước muối). Nếu nước muối quá mặn, cà sẽ lâu chua; nếu ít muối, cà sẽ nhanh chua nhưng dễ hỏng. Đảm bảo cà luôn chìm dưới mặt nước trong quá trình bảo quản.
- Muối xổi: tương tự như muối nước nhưng dùng dung dịch nước muối có độ mặn thấp để cà có thể chua trong 2 - 3 ngày.
- Thưởng thức: cà pháo muối thường ăn trực tiếp với nước chấm như nước mắm, mắm tôm, tương,... và kết hợp với các món như canh rau đay, mùng tơi hoặc nước rau muống luộc. Có thể chế biến thêm bằng cách dầm tương, ngâm dấm đường,...
Cà pháo cũng có thể được muối cùng với rau cải dưa và ngoài các cách chế biến phổ biến, cà pháo còn có thể ăn sống hoặc làm mắm cà.
Y học cổ truyền cũng áp dụng cây cà pháo như một loại dược liệu trong một số bài thuốc.
Chú thích
Liên kết ngoài
- Dữ liệu liên quan đến Solanum macrocarpon trên Wikispecies
- Tài liệu về Solanum macrocarpon trên Wikimedia Commons
- Trang web về Cà pháo của FAO. Lưu trữ 2008-06-29 tại Wayback Machine Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- Cà pháo trên trang web Flora of Taiwan. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- Cách trồng Cà pháo trên trang web Nông nghiệp Việt Nam. Lưu trữ 2008-05-03 tại Wayback Machine Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại |
|
---|