- Xem các ý nghĩa khác của cà phê tại trang Cà phê (định hướng)
Cà phê vối | |
---|---|
Cà phê vối | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo) | Gentianales |
Họ (familia) | Rubiaceae |
Phân họ (subfamilia) | Ixoroideae |
Tông (tribus) | Coffeeae |
Chi (genus) | Coffea |
Loài (species) | C. canephora |
Danh pháp hai phần | |
Coffea canephora Pierre ex A.Froehner, 1897 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Coffea bukobensis A.Zimm. |
Cà phê robusta (danh pháp hai phần: Coffea canephora hoặc Coffea robusta) là loại cây cà phê quan trọng thứ hai trong sản xuất cà phê. Khoảng 39% sản lượng cà phê trên toàn cầu là từ loại này. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu lớn nhất cà phê robusta trên thế giới, các quốc gia khác bao gồm Brazil, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Uganda và Côte d'Ivoire. Tại Brazil, cà phê robusta được biết đến với tên gọi Conilon.
Đặc điểm
Cây cà phê robusta có thể mọc thành cây gỗ hoặc cây bụi, chiều cao cây trưởng thành có thể lên đến 10 m. Quả cà phê có hình dạng tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê arabica. Nồng độ caffein trong hạt cà phê robusta dao động từ 2-4%, cao hơn so với cà phê arabica (1-2%). Cây có thể thu hoạch từ 3-4 năm tuổi và có thể cho trái trong vòng 20-30 năm. Cây thích nghi với khí hậu nhiệt đới, thường trồng ở độ cao dưới 1000 m, với nhiệt độ lý tưởng khoảng 24-29°C và lượng mưa trên 1000 mm mỗi năm. Cây cũng cần ánh sáng mặt trời nhiều hơn so với cây cà phê arabica.
Xuất xứ và phân bố ban đầu
Cà phê robusta có nguồn gốc từ các khu rừng cao nguyên ở Ethiopia, nó mọc hoang dã từ Liberia đến Tanzania và phía nam đến Angola. Loài này không được công nhận là một loài thuộc chi Coffea cho đến năm 1897, hơn 100 năm sau khi loài Coffea arabica được biết đến. Cà phê robusta cũng được thực vật hóa ở Borneo, Polynesia thuộc Pháp, Costa Rica, Nicaragua, Jamaica và Tiểu Antilles.
Trồng và xuất khẩu tại Việt Nam
Cà phê robusta có hàm lượng caffein cao hơn và hương vị không tinh khiết bằng cà phê arabica, do đó giá trị của nó thường thấp hơn. Giá một bao cà phê robusta thường chỉ bằng một nửa so với cà phê arabica. Trong niên vụ 2012-2013, Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,426 triệu tấn (~ 23,77 triệu bao, loại 60 kg/bao) cà phê robusta, chiếm gần một nửa lượng cà phê robusta xuất khẩu toàn cầu (trên 60 triệu bao). Hiện nay, gần 90% diện tích trồng cà phê ở Việt Nam là cà phê robusta, 10% là cà phê arabica, và khoảng 1% còn lại là cà phê mít (Coffea excelsa).