Rái cá | |
---|---|
Rái cá sông Bắc Mỹ | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Carnivora |
Họ (familia) | Mustelidae |
Phân họ (subfamilia) | Lutrinae |
Các chi | |
Danh sách |
Cá Rái (danh pháp khoa học: Lutrinae) là một nhóm động vật có vú ăn thịt sống dưới nước hay đại dương, thuộc một phần của họ Chồn (Mustelidae), họ bao gồm chồn, chồn nâu, lửng, cũng như một vài loài khác. Với 13 loài trong 7 chi, cá Rái phân bố khắp nơi trên thế giới.
Tiếng Việt còn gọi cá Rái là con tấy.
Đặc điểm cơ thể
Cá Rái có lớp lông trong dày (1.000 lông/mm²) và mịn được bảo vệ bởi lớp lông ngoài giữ cho chúng khô ráo dưới nước và giữ lại một lớp không khí để giữ ấm.
Tất cả các loài rái cá có thân thon dài và mềm mại, chân ngắn và màng chân. Phần lớn có vuốt sắc để bắt mồi, nhưng rái cá Nam Á có vuốt ngắn chỉ để lại dấu vết, và hai loài rái cá châu Phi gần gũi không có vuốt: chúng sống ở các con sông đầy bùn ở châu Phi và châu Á và dùng xúc giác để tìm mồi.
Chế độ ăn uống
Rái cá không chỉ phụ thuộc vào bộ lông mà còn có tốc độ trao đổi chất cao và tiêu hao năng lượng nhanh: ví dụ, rái cá Âu-Á phải ăn bằng 15% cơ thể mỗi ngày; cá biển cần từ 20 đến 25% theo nhiệt độ. Ở nước 10 °C, mỗi con cần ít nhất 100g cá mỗi giờ để sống sót; nếu ít hơn, chúng sẽ không thể tồn tại. Hầu hết chúng săn mồi 3-5 giờ mỗi ngày, nhưng con mẹ đang cho con bú thì cần săn mồi 8 giờ mỗi ngày.
Rái cá chủ yếu ăn cá như thức ăn chính, ngoài ra còn ăn ếch, tôm và cua; một số loài ăn sò hoặc động vật có vú nhỏ và chim.
Các loài
|
Chi Lutra
- Rái cá thường (Lutra lutra)
- Rái cá lông mũi (Lutra sumatrana)
- Rái cá Nhật Bản (Lutra nippon)
Chi Hydrictis
- Rái cá cổ đốm (Hydrictis maculicollis)
Chi Lutrogale
- Rái cá lông mềm (Lutrogale perspicillata)
Chi Lontra
- Rái cá sông Canada (Lontra canadensis)
- Rái cá sông Chile (Lontra provocax)
- Rái cá sông Nam Mỹ miền nhiệt đới (Lontra longicaudis)
- Rái cá biển Nam Mỹ (Lontra felina)
Chi Pteronura
- Rái cá lớn hơn (Pteronura brasiliensis)
Con gấu biển Aonyx
- Con gấu biển châu Phi không vuốt (Aonyx capensis)
- Con gấu biển vuốt bé (Aonyx cinerea)
Con rái cá Enhydra
- Con rái cá biển (Enhydra lutris)
Chi †Megalenhydris
Chi †Sardolutra
Chi †Algarolutra
Chi †Cyrnaonyx
Chú sóc nước Bắc Mỹ
Chú sóc nước Bắc Mỹ (Lontra canadensis) đang trở thành một trong những loài bị săn bắt nhiều nhất để lấy da và lông tại Bắc Mỹ. Thức ăn chủ yếu của chúng là cá, tôm, sò...; đôi khi cả chim nữa. Chú sóc nước Bắc Mỹ khi trưởng thành có thể dài đến 1m và nặng khoảng 5 đến 15 kg. Hiện nay, một số nước đã đưa loài này vào danh sách những loài động vật cần được bảo vệ, và xây dựng cả khu bảo tồn với mục đích chăm sóc những con bị thương hoặc bị ốm.
Chú sóc biển
Chú sóc biển sống chủ yếu dọc bờ biển Thái Bình Dương của Bắc Mỹ. Phạm vi sinh sống của chúng bao gồm phần nước nông ở eo biển Bering và vùng Kamchatka, kéo dài đến vùng biển phía nam Nhật Bản. Vì có bộ lông khá dày nên chúng trở thành con mồi cho những kẻ săn lông thú. Trước thời điểm năm 1911, Hiệp ước về lông các loài động vật biển đã đưa chú sóc biển vào danh sách cần được bảo vệ. Do đó, ngành kinh doanh lông thú đã trở thành ngành kinh doanh phi lợi nhuận và loài chú sóc vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Chú sóc biển ăn các sò và các loại động vật không xương sống như trai, nhím biển, bào ngư. Chúng có khả năng sử dụng đá để mở vỏ của các loài này. Chú sóc biển trưởng thành dài từ 1 đến 1.5m và cân nặng khoảng 35 kg. Mặc dù đã từng đứng bên bờ tuyệt chủng nhưng số lượng loài này đang ngày càng tăng lên, phân bố rộng rãi từ California đến Alaska. Không giống như phần lớn những loài động vật biển có vú khác như hải cẩu hay cá voi, chú sóc biển không có lớp mỡ giữ ấm ở dưới da. Chúng giữ nhiệt dựa vào lớp không khí giữa lớp lông dày của mình. Chú sóc biển dành phần lớn thời gian của mình ở dưới nước, trong khi những loài chú sóc khác thông thường lại chỉ ở trên bờ.
Chồn nước lớn
Chồn nước lớn (Pteronura brasiliensis) sinh sống ở Nam Mỹ, đặc biệt là trên lưu vực sông Amazon. Tuy nhiên, hiện nay chúng trở nên rất hiếm do săn bắt, mất môi trường sống và việc sử dụng thủy ngân bất hợp pháp trong khai thác vàng trên sông. Chúng thường sống thành đàn, khi trưởng thành có thể dài đến 1,6m và sống dưới nước lâu hơn các loài chồn nước khác.