Cá thiều | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Actinopterygii |
Bộ: | Siluriformes |
Họ: | Ariidae |
Chi: | Netuma |
Loài: | N. thalassina
|
Danh pháp hai phần | |
Netuma thalassina (Rüppell, 1837) | |
Các đồng nghĩa | |
|
Cá thu (Tên khoa học: Netuma thalassina, trước đây là Arius thalassinus) là một loài cá da trơn thuộc họ Ariidae, bộ cá Siluriformes, phân bố tại Inđônêxia, Trung Quốc, Malaixia, Ấn Độ, và Việt Nam (Cửa Lò-Nghệ An, Đồng Hới-Quảng Bình, Lăng Cô-Huế, miền Tây-Đồng bằng sông Cửu Long). Loài này trước đây thuộc chi Arius nhưng hiện đã được chuyển sang chi Netuma.
Loài cá này có giá trị kinh tế cao, có thể khai thác quanh năm và được sử dụng để ăn tươi hoặc phơi khô. Tên gọi phổ biến bằng tiếng Việt bao gồm Cá Úc thường, cá gúng, cá rún, hoặc cá ngách. Tên tiếng Anh: Giant catfish, Giant salmon catfish, Giant Sea-Catfish, Giant Catfish, Mâchoiro-n Titan. Tên tiếng Nhật: Osaka-Hamagigi. Tên tiếng Tây Ban Nha: Bagre titán.
Đặc điểm
Cá thu là loài cá nước ngọt, sống ở tầng nước giữa. Cá thường xuất hiện nhiều trong mùa lũ (tháng 9 – 10 âm lịch) ở đồng bằng sông Cửu Long. Vào những ngày có gió, cá thường bơi nhiều, và người dân nơi đây dùng nhũi để đánh bắt chúng. Cá thu có thân hình dẹp, kích thước khoảng 2 ngón tay người lớn, với vảy li ti màu trắng bạc, trọng lượng từ 4–7 kg, thịt cá béo và thơm ngon, được coi là đặc sản mùa nước lũ miền Tây. Đặc tính của cá thu là vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 hàng năm mới di chuyển vào bờ và sinh sản khi trời có giông.
Cá thiều có thân dài tương đối, với kích thước từ 250–500 mm, có thể lên đến 610 mm. Đuôi cá chia thành hai thùy sâu bằng nhau. Vây lưng đầu tiên có gai, trong khi vây lưng thứ hai là vây mỡ phát triển tương đối, và vây hậu môn ngắn. Vây ngực lớn hơn và dài hơn vây bụng. Cá không có râu mũi, màng mang gắn liền với eo mang, và có râu mép cùng râu cằm. Đầu cá dài tương đương với chiều cao thân, khoảng 1/4 chiều dài từ mõm đến vây đuôi. Màu sắc lưng cá xám bạc hoặc xám tro, hai bên thân sáng hơn và chuyển dần sang trắng bạc ở bụng, các vây có màu tối hơn.
Khai thác
Tại Huế, Việt Nam, ngư dân địa phương vừa thu hoạch một mẻ cá thiều (còn gọi là cá ngách) lên đến hơn 70 tấn, với giá bán gần 4 tỷ đồng. Mẻ cá này được bắt ở vùng biển Chân Mây - Lăng Cô bằng lưới vây rút chì tại độ sâu khoảng 20-25m. Vào mùa này, cá thiều di chuyển vào bờ và sinh sản khi trời giông, giúp việc đánh bắt dễ dàng hơn. Để thu được số lượng lớn cá này, ba tàu đánh cá cùng với các bạn thuyền trong chi hội nghề cá đã cùng nhau khai thác.
Ngư dân đã bắt đầu thả lưới vây rút chì tại vùng biển Chân Mây-Lăng Cô, cách bờ khoảng trên 10 hải lý, và phát hiện mẻ cá thiều lớn. Sau khi tập trung lực lượng, họ thu được hơn 70 tấn cá thiều, mỗi con nặng từ 4–7 kg. Giá bán trong ngày đầu tiên là 100 - 105 nghìn đồng/kg, và giảm xuống còn 50 - 55 nghìn đồng/kg vào ngày thứ hai và thứ ba. Tổng số thu từ mẻ cá này là 3,85 tỷ đồng.
Nhiều ngư dân ở phường Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò đã trúng lớn cá thiều, hay còn gọi là cá ngách. Loại cá này ít xuất hiện ở vùng biển Cửa Lò nhưng có giá trị cao, góp phần tăng thu nhập cho ngư dân. Một đội tàu đã thu hoạch được 10 tấn cá thiều, mỗi con có trọng lượng từ 2 – 4 kg. Hiện giá bán sỉ tại bến là 50 – 60 nghìn đồng/kg.
Trong ẩm thực
Cá thiều không chỉ giàu dinh dưỡng mà còn có thể chế biến thành nhiều món ngon như cá kho hành ớt, cá thiều chấy tỏi, cá thiều nấu canh chua và nhiều món khác. Cá thiều có thể được chế biến thành các món như cá thiều khô tẩm, muối chiên, kho sả ớt nước cốt dừa... Trong đó, món cá thiều kho khô được ưa chuộng nhất. Cá thiều khô có hương thơm đặc trưng, vị mặn mà của nước mắm hòa quyện với sự ngọt ngào của đường và vị cay nồng của tiêu. Đặc biệt, mang cá thiều được đánh giá cao; theo tục ngữ ở Đồng Hới: 'Nhất Nghẽo gan, nhì mang thiểu', có nghĩa là gan cá nghéo rất béo còn mang cá thiều rất ngon, đặc biệt là vào tháng Ba. Cá thiều tháng Ba có kích thước lớn, thịt béo và mang rất ngon. Nếu kết hợp trứng cá thiều với mang cá thiều để nấu canh, hương vị sẽ càng tuyệt vời hơn.
Chú thích
- Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Các loài thuộc Netuma trên FishBase. Phiên bản tháng 8 năm 2011.
- Eschmeyer, William N., ed. 1998. Catalog of Fishes. Special Publication of the Center for Biodiversity Research and Information, số 1, vol. 1-3. California Academy of Sciences. San Francisco, California, Hoa Kỳ. 2905. ISBN 0-940228-47-5.
- Fenner, Robert M.: The Conscientious Marine Aquarist. Neptune City, New Jersey, Hoa Kỳ: T.F.H. Publications, 2001.
- Helfman, G., B. Collette và D. Facey: The Diversity of Fishes. Blackwell Science, Malden, Massachusetts, Hoa Kỳ, 1997.
- Moyle, P. và J. Cech.: Fishes: An Introduction to Ichthyology, ấn bản lần 4, Upper Saddle River, New Jersey, Hoa Kỳ: Prentice-Hall. Năm 2000.
- Nelson, J.: Fishes of the World, ấn bản lần 3. New York, Hoa Kỳ: John Wiley and Sons. Năm 1994.
- Wheeler, A.: The World Encyclopedia of Fishes, ấn bản lần 2, London: Macdonald. Năm 1985.