Cá vồ đém | |
---|---|
Cá vồ đém bắt được vào tháng 4 năm 2021 ở sông Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Nhánh | Craniata |
Phân ngành (subphylum) | Vertebrata |
Phân thứ ngành (infraphylum) | Gnathostomata |
Liên lớp (superclass) | Osteichthyes |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Phân lớp (subclass) | Neopterygii |
Phân thứ lớp (infraclass) | Teleostei |
Liên bộ (superordo) | Ostariophysi |
Bộ (ordo) | Siluriformes |
Họ (familia) | Pangasiidae |
Chi (genus) | Pangasius |
Loài điển hình | |
Pangasius larnaudii | |
Loài | |
Pangasius larnaudii |
Cá vồ đêm (Pangasius larnaudii) là một loài cá da trơn thuộc họ cá tra (Pangasiidae), sống chủ yếu ở Đông Nam Á như Campuchia và Việt Nam. Nó còn được gọi là cá vồ, cá dồ, hoặc cá zồ (tên miền Nam) và Trey Po (tên Khơ Me). Loài cá này có giá trị kinh tế cao và được nuôi rộng rãi trong ngành thủy sản ở nhiều quốc gia Đông Nam Á.
Phân bố
Cá vồ đêm phân bố rộng rãi ở lưu vực sông Mêkông, bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, chủ yếu ở các sông lớn và khu vực ngập nước. Nó cũng sống ở Sông Chao Phraya của Thái Lan. Tại Việt Nam, cá chủ yếu tìm thấy trên sông Tiền và sông Hậu, thường ở vùng nước sâu và đôi khi ở khu vực nước nông với dòng chảy mạnh. Vào đầu mùa mưa (tháng 5 và tháng 6), cá di cư lên thượng nguồn và trú ẩn ở các vực sâu trong sông Mekong từ Kra-chiê đến Stung Treng trong mùa khô.
Đặc điểm
Đặc điểm
Cá có thân hình dài, phần đầu tròn và dẹp dần về phía đuôi. Đường viền lưng từ mõm đến gốc vây lưng là một đường thẳng nghiêng. Đầu dẹp với mõm tù, miệng nằm dưới, rộng ngang và hình vòng cung, không thể co duỗi. Hai hàm có kích thước bằng nhau, với răng hàm nhỏ và mịn. Răng xương lá mía được sắp xếp thành hai đốm tách rời hoặc liên kết với nhau tạo thành một vòng cung, có nhiều chỗ lõm hoặc phân tách thành hai đốm.
Cá có hai đôi râu nhỏ và ngắn, với râu hàm trên dài đến gốc vây ngực và râu cằm ngắn hơn, không tới màng mang. Lỗ mũi sau gần lỗ mũi trước hơn so với mắt và nằm trên đường thẳng nối giữa mũi trước với mép trên mắt. Mắt lớn, nằm ngay sau đường ngang từ góc miệng và cách đều mõm với điểm cuối nắp mang. Khoảng cách giữa hai mắt rộng và hơi cong lồi. Lỗ thóp ngắn, kéo dài từ đường nối hai mắt đến gốc chẩm.
Vây lưng và vây ngực có các gai cứng, với các răng cưa hướng về phía gốc. Các gai và tia phân nhánh đầu tiên của các vây này phát triển mạnh mẽ. Tia đơn của vây bụng dài hơn tia vây hậu môn. Vây mỡ nhỏ và vây hậu môn tương đối dài. Vây đuôi phân thùy sâu. Mặt lưng và thân có màu xanh lá cây đen, nhạt dần về phía bụng, bụng màu trắng. Có một đốm đen lớn trên gốc vây ngực, và các tia vây thứ 3, 4, 5 của vây hậu môn cùng với màng da giữa các tia vây bụng có màu đen như mực. Các vây khác có màu xám với rìa nhạt.
Thói quen
Cá vồ đêm thường sống ở các vùng nước sâu trên sông, nhưng cũng có thể tìm thấy ở vùng nước nông với dòng chảy mạnh. Vào mùa lũ, cá di cư vào các vùng ngập để tìm kiếm thức ăn. Loài cá này ăn tạp, bao gồm các loài cá nhỏ, tôm tép, giun, ốc và cả thực vật. Chúng di cư đến vùng ngập để sinh sản vào đầu mùa lũ, và cá con sẽ kiếm ăn tại các khu vực này.
Trong môi trường tự nhiên, cá vồ đêm chủ yếu ăn động vật, chứng tỏ sự ăn tạp của chúng. Cá nuôi trong ao được cho ăn thức ăn viên công nghiệp với hàm lượng đạm từ 26% - 28%. Mỗi ngày, khẩu phần ăn của cá là 2 - 4% khối lượng cơ thể và được cho ăn hai lần mỗi ngày. Ao nuôi được thay nước hàng tuần từ 10 – 30%, và các chỉ số môi trường nước (DO, pH, NH3, nhiệt độ) được kiểm tra định kỳ hai lần mỗi tuần vào 6 giờ và 14 giờ.
Sinh sản
Cá có thể đạt kích thước tối đa 150 cm, nhưng thường gặp kích thước từ 90 – 100 cm. Cá bột đạt 3,5 mm sau 12 giờ nở; 8,4 mm ở 4 ngày tuổi; 8,8 mm ở 8 ngày tuổi và 23,0 mm khi 18 ngày tuổi. Vẫn còn nhiều tranh cãi về nơi sinh sản tự nhiên của cá vồ đêm. Một số cho rằng cá đẻ ở các vùng ngập vào đầu mùa lũ, trong khi ý kiến khác cho rằng chúng đẻ ở sông Mêkông gần Stung Treng (Campuchia), và cá bột di chuyển đến sông Bassac ở phía Nam Lào sau 6 - 8 ngày. Do cá vồ đêm di cư ngược dòng qua thác Khone (Thái Lan), có thể còn có một bãi đẻ khác ở thượng nguồn thác này.
Cá vồ đêm có xu hướng di cư đến các vùng nước sâu trong mùa khô. Cá trưởng thành sẽ di chuyển ngược dòng từ nơi kiếm ăn về bãi đẻ vào đầu mùa mưa. Trong tự nhiên, cá đẻ trứng từ tháng 5 – 7, trong điều kiện nuôi nhân tạo, mùa sinh sản kéo dài hơn từ tháng 4 - 9. Tuổi thành thục đầu tiên là 3 tuổi, cá vồ đêm nuôi vỗ cho sinh sản lần đầu có trọng lượng từ 2–5 kg/con. Sau thời gian nuôi bằng thức ăn viên với hàm lượng đạm 30 – 36%, cá thành thục đạt trên 40%, và mùa sinh sản kéo dài từ tháng 5 – 8.
Giá trị
Cá vồ đêm đóng vai trò quan trọng trong ngành đánh bắt ở Lào, Thái Lan, và Campuchia, đặc biệt tại Campuchia, nó là loài được khai thác đứng thứ ba trong ngành khai thác thủy sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cá vồ đêm không được xem là đối tượng khai thác giá trị do sản lượng khai thác khá thấp. Hiện tại, Đồng bằng sông Cửu Long đang đẩy mạnh việc sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm, do đó, giá trị bảo tồn của loài này không còn quan trọng, nhưng việc khai thác nguồn gen để cung cấp giống cho nuôi trồng là rất cần thiết.
Tại Việt Nam, cá vồ đêm được phân loại thành ba nhóm theo kích thước: Nhóm 1 gồm 49 con lớn nhất nuôi trong ao diện tích 800 m2 tại Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam Bộ; Nhóm 2 gồm 15 con có kích thước trung bình nuôi trong ao diện tích 1.000 m2 tại Trung tâm; và Nhóm 3 gồm 10 con nhỏ nhất, trong đó năm con nuôi trong ao 800 m2 và năm con nuôi trong bè có thể tích 60 m3 tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Chú thích
- Thông tin liên quan đến cá vồ đêm có thể tìm thấy tại Wikispecies
- Tyson R. Roberts, Chavalit Vidthayanon: Phân loại hệ thống của họ cá tra Pangasiidae, kèm theo quan sát sinh học và mô tả ba loài mới. Trong: Proc. Acad. Nat. Sci. Philad.. 143, 1991, trang 97-144.
- Eschmeyer, William N., ed. 1998. Catalog of Fishes. Ấn phẩm đặc biệt của Trung tâm Nghiên cứu và Thông tin Đa dạng Sinh học, số 1, tập 1-3. California Academy of Sciences. San Francisco, California, Hoa Kỳ. 2905. ISBN 0-940228-47-5.
- Fenner, Robert M.: The Conscientious Marine Aquarist. Neptune City, New Jersey, Hoa Kỳ: T.F.H. Publications, 2001.
- Helfman, G., B. Collette và D. Facey: The diversity of fishes. Blackwell Science, Malden, Massachusetts, Hoa Kỳ, 1997.
- Moyle, P. và J. Cech.: Fishes: An Introduction to Ichthyology, ấn bản lần thứ 4, Upper Saddle River, New Jersey, Hoa Kỳ: Prentice-Hall. Năm 2000.
- Nelson, J.: Fishes of the World, ấn bản lần thứ 3. New York, Hoa Kỳ: John Wiley and Sons. Năm 1994.
- Wheeler, A.: The World Encyclopedia of Fishes, ấn bản lần thứ 2, London: Macdonald. Năm 1985.
Liên kết ngoài
- Công trình này là bản dịch từ Pangasius larnaudii trên Wikipedia phiên bản Catalan, được xuất bản dưới giấy phép GNU Free Documentation License và giấy phép Creative Commons Attribution-ShareAlike 3.0 Unported.
- Pangasius larnaudii được liệt kê trong Danh sách Đỏ các loài nguy cấp của IUCN 2013.1. Được cung cấp bởi: Baird, I., 2011. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2013