Các bài thi chuẩn hoá được lựa chọn để phục vụ nhu cầu học tập, làm việc hay định cư tại các nước nói tiếng Anh đang được tăng cao. Theo thống kê trên trang chủ của các đơn vị khảo thí chính thức, chỉ tính riêng trong năm 2019, có tới 3.5 triệu lượt đăng kí thi IELTS, 2.2 triệu lượt đăng kí thi SAT, 2.3 triệu lượt đăng kí thi TOEFL, và 1.8 triệu lượt đăng kí ACT. Với nhu cầu học tập, làm việc hay định cư tại các nước nói tiếng Anh như Anh, Úc, Mỹ ngày càng phổ biến, số lượng người thi các bài thi chuẩn hoá cũng từ đó tăng cao.
SATIELTSTOEFLDù cùng được liệt kê vào danh sách các bài thi chuẩn hoá, song các kì thi nêu trên không hề giống nhau xét trên nhiều phương diện, từ cấu trúc đề thi đến mục đích chứng chỉ. Điều này vô tình gây khó khăn cho nhiều học viên và thí sinh đăng kí dự thi, rằng giữa những chứng chỉ “chuẩn hoá tiếng Anh” trên thị trường, đâu mới là bài thi chuẩn hóa phù hợp cho mục đích, thế mạnh, và thời gian ôn tập của bản thân.
Định nghĩa các kỳ thi chuẩn hoá
“The International English Language Testing System (IELTS) measures the language proficiency of people who want to study or work where English is used as a language of communication.”
Gần như tương tự, TOEFL (Test of English as a Foreign Language) được định nghĩa:
“The higher-standard TOEFL test measures the ability of non-native English speakers to use and understand English as it’s read, written, heard and spoken in the university classroom.”
Tổng hợp lại, IELTS và TOEFL đều có mục đích gần tương tự nhau, nhằm đánh giá khả năng ngôn ngữ (language proficiency với IELTS và use and understand English với TOEFL) của người muốn học tập, làm việc tại môi trường sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp chính.
Trong khi đó, SAT (Scholastic Aptitude Test) được định nghĩa một cách ngắn gọn:
“The SAT is a standardized test widely used for college admissions in the United States.”
Với ACT (American College Testing), bài thi được định nghĩa đơn giản:
“A standardized test designed to assess high school students’ academic achievement and college readiness.”
Từ đây, ACT và SAT cùng nhắm đến việc chuẩn hóa năng lực học sinh, nhằm đánh giá khả năng và mức độ sẵn sàng (college readiness) của học sinh trước khi bước vào đại học. Một cách đơn giản, hai bài thi trên chỉ nhằm đánh giá khả năng học thuật của học sinh trung học, chủ yếu để phục vụ quy trình tuyển sinh tại các đại học Hoa Kỳ.
Vậy, sau khi tìm hiểu qua bốn định nghĩa trên, các bài thi chuẩn có thể được chia vào hai nhóm chính:
-
Nhóm chuẩn hoá năng lực ngoại ngữ (tiếng Anh): Bao gồm kì thi IELTS và TOEFL. Được dùng để đánh giá khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh khi đi du học, làm việc hoặc định cư ở một quốc gia nói tiếng Anh.
Nhóm chuẩn hoá năng lực học thuật: Bao gồm kì thi SAT và TOEFL. Cung cấp một thang đo cho các các trường đại học (chủ yếu tại Hoa Kỳ) về khả năng học thuật (bao gồm ngôn ngữ và Khoa học) của thí sinh.
Do đó, trong phần tiếp theo của bài viết, các bài thi chuẩn hóa trong cùng một nhóm sẽ được so sánh với nhau. Những so sánh chéo, chẳng hạn giữa TOEFL và SAT, hay giữa IELTS và SAT, đều không hợp lí và không liên quan do hai bài thi có tính chất mục đích hoàn toàn khác nhau.
Bài thi chuẩn hoá năng lực ngoại ngữ
Lưu ý:
Phần thi Nói của TOEFL được thực hiện hoàn toàn với máy ghi âm, sau đó bài thi sẽ được gửi sang đơn vị khảo thí để đánh giá; trong khi đó, phần thi nói của IELTS được thực hiện với trực tiếp với giám khảo.
Người dự thi IELTS sẽ được trả điểm trong khoảng 4 – 5 ngày (với máy tính) và 14 ngày (với bài thi giấy) sau khi thi, trong khi thời gian này cho người thi TOEFL là 15 ngày.
TOEFL và IELTS thường có thể dùng thế chỗ nhau (replaceable) trong quá trình apply du học hay xin việc. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc khá nhiều vào tổ chức hay trường đại học thí sinh hướng đến. Vì vậy, hãy luôn kiểm tra kĩ yêu cầu đầu vào, để chọn được bài thi đúng nhu cầu bản thân.
Bài thi chuẩn hoá năng lực học thuật
Lưu ý:
SAT áp dụng chính sách SuperScore, gần tương tự như MyBest trong TOEFL, nghĩa là điểm tốt nhất của phần thi Toán sẽ được cộng với điểm tối nhất của phần Đọc-Viết để ra tổng điểm sau cùng. Trong khi đó, ACT áp dụng chính sách làm tròn điểm gần giống như IELTS. Nghĩa là nếu thí sinh lấy tổng điểm chia trung bình được lẻ 0.25, điểm thi của thí sinh sẽ làm tròn xuống; trong khi nếu điểm lẻ là 0.5 hoặc 0.75, thí sinh sẽ được làm tròn lên đến 1.
Mặc dù phần Viết luận của SAT và ACT đều là tự chọn (optional), vẫn có những trường đại học yêu cầu điểm luận đi kèm với hồ sơ du học. Vì vậy, thí sinh trước khi đăng kí thi nên kiểm tra kĩ phần yêu cầu (prerequisite hoặc requirements) của tổ chức/trường đại học mình muốn đăng kí.
Tổng kết về các kỳ thi chuẩn hóa
Phụ lục: Giải thích về chính sách MyBest (TOEFL) và SuperScore (SAT)
Giả sử, ngày 01/01/2019, người thi A được 20 (Reading), 30 (Listening), 30 (Writing) và 30 (Speaking). Đến ngày 06/06/2019, người đó thi thi lại và đạt điểm 30 (Reading), 25 (Listening), 30 (Writing) và 30 (Speaking). Tổng điểm MyBest của thí sinh đó khi đó là 120 điểm, với điểm cao nhất cho mỗi phần là 120 điểm, và điều này hoàn toàn hợp lệ trong quá trình gửi và xét điểm TOEFL của thí sinh đó.
Tương tự, một người thi SAT được 600/800 điểm đọc viết (Verbal Section) và được 800 điểm Toán (Maths Section) trong lần thi đầu tiên. Sau đó, trong lần thi thứ 2, người đó đạt 700/800 điểm đọc viết và 700 điểm Toán. Khi đó, điểm SuperScore của người thi sẽ là 1500/1600 điểm (lấy 700 điểm đọc viết đợt 2 cộng với 800 điểm Toán đợt 1).
Rõ ràng, với những người thi cảm thấy không tự tin với việc giữ phong độ bản thân trong các phần khác nhau của đề thi, hai chính sách nêu trên đều mang lại lợi thế rất lớn trong việc đạt được số điểm mong muốn.
Trích dẫn
ACT. Wikipedia, 07 August 2020
International English Language Testing System. Wikipedia, 07 Aug 2020
Test of English as a Foreign Language, Wikipedia, 07 Aug 2020
IELTS Introduction. ielts.org, 07 Aug 2020
About the TOEFL iBT® Test. ets.org, 07 Aug 2020
Preparing for the ACT® Test. act.org, 07 Aug 2020,
[1] Ở bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến bài thi IELTS học thuật (Academic) nhằm phục vụ mục đích so sánh. Các dạng khác của bài thi IELTS, như UKVI hay IELTS Life Skills sẽ không được đề cập tại đây.
[2] Ở bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến bài thi TOEFL iBT (Internet-based test) nhằm phục vụ mục đích so sánh. Các dạng khác của bài thi TOEFL, như TOEFL ITP, sẽ được không được đề cập tại đây.
[3] Ở bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến bài thi SAT I (Reasoning Test) nhằm mục đích so sánh với bài thi ACT. Những dạng bài thi khác, như SAT II (Subject Tests), sẽ không được đề cập tại đây.
[4] Phần thi Ngôn ngữ trong SAT được gọi là SAT Writing, và trong ACT được gọi là ACT English.
“Ngôn ngữ” được tác giả tự biên dịch nhằm giúp người đọc hiểu được một cách đơn giản hóa.
[5] Phần viết Luận trên cả SAT và ACT đều là lựa chọn (optional). Thí sinh có thể quyết định không tham gia phần này.
Hưng Nguyễn