Phân tích về sự đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến, bao gồm 6 mẫu văn mẫu hay nhất. Điều này giúp các bạn học sinh lớp 12 có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao vốn từ và cải thiện kỹ năng viết văn mỗi ngày. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm một số dạng bài văn khác trong chuyên mục Văn 12. Mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Sắc đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 1
Cùng với các nhà thơ như Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung, Chính Hữu, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau hơn một năm gắn bó với cuộc Tây Tiến trên đất rừng núi, nơi đầy gian khổ và cảm xúc, Quang Dũng đã viết nên bài thơ 'Tây Tiến'. Dù ra đời trong thời kỳ kháng chiến và cách mạng ban đầu, 'Tây Tiến' vẫn là một tác phẩm vĩ đại, kinh điển, đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Một trong những yếu tố quan trọng mang tác phẩm đến đỉnh cao và giúp nó tồn tại vững chắc đến ngày nay chính là vẻ đẹp của ngôn ngữ, mà nhà thơ đã khéo léo sử dụng.
Trong một tác phẩm văn học, ngôn ngữ được xem như chất liệu và phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng. Với một dung lượng ngôn ngữ hạn chế như trong thơ, từ ngữ được sử dụng một cách tiết kiệm, được như một nhà thơ từng nói: 'đúc lại như huân chương', hoặc như Pautopxki: 'Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói cạn cùng, mất sạch tính chất hình tượng, nhưng trong thơ ca lại sáng lấp lánh, kêu giòn và tỏa hương' (Bông Hồng Vàng). Hiểu rõ tầm quan trọng của việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác, Quang Dũng đã đạt được những thành công nhất định khi truyền đạt tiếng nói của tình cảm và trái tim.
Ngôn ngữ trong bài thơ 'Tây Tiến' toát lên vẻ đẹp của màu sắc cổ điển và lãng mạn. Quang Dũng mạnh mẽ bị ảnh hưởng bởi nhạc điệu của thơ cổ điển. Có thể nói, thơ của Quang Dũng, dù là hiện thực kháng chiến (chống Pháp), lại được thể hiện qua một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển.
Thông qua hai câu thơ đầu, ta có thể cảm nhận được bản chất của thơ Quang Dũng:
“Sông Mã đã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Âm điệu của câu thơ đầy hứng thú như lời thơ Lí Bạch. Tình cảm tràn ngập như của các nhà thơ lãng mạn thời kỳ mới. Nỗi nhớ trào dâng như nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn, ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:
“Tương tư đầy lòng, tận hưởng cảm xúc chơi vơi”
Nhưng với Quang Dũng:
“Nhớ về rừng núi, hồi ức chơi vơi”.
Tuy nhiên, một phía là nhớ về người yêu, một phía lại là nhớ về những ký ức kháng chiến. Ta cũng thấy nét của Lí Bạch trong thơ của Quang Dũng. Bản sắc cổ điển được thể hiện rõ nét trong câu thơ: “Lên cao ngàn thước, xuống ngàn thước”, không khác gì câu thơ: “Nước rơi thẳng xuống, ba ngàn thước” trong tác phẩm “Xa ngắm thác núi Lư” của Lí Bạch!
Chúng ta cũng có thể nghe thấy âm điệu của Tản Đà trong giai điệu tự do, mê đắm của Quang Dũng:
“Nhà ở đâu Pha Luông còn nước mưa xa rìa biển”
(“Thế giới đen đủi vui chơi, quên hết gốc rễ” - Tản Đà)
Vẻ cổ điển trong ngôn ngữ thơ của Quang Dũng cũng được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ Hán Việt đặc biệt, tạo ra sức hấp dẫn cho các câu thơ:
“Phân bố rải rác biên giới nơi cõi viễn xứ”
Câu thơ chỉ có từ “rải rác” là tiếng Việt thuần, nhưng lại là từ ngữ Hán Việt cổ kính, mang lại không khí thiêng liêng, đầy cảm xúc. Sự chọn lựa ngôn ngữ phù hợp đã khiến cho những câu thơ của Quang Dũng không chỉ là tiếng nói đơn giản mà còn là hình ảnh cao quý của sự hi sinh của những người lính Tây Tiến trong không khí hùng vĩ.
Kết hợp với ngôn ngữ cổ điển, vẻ đẹp của bút pháp lãng mạn dần hiện lên trong sự nhớ nhung của Quang Dũng khi ông nhớ về đơn vị quân của mình. Các địa danh như Sài Khao, Mường Lát đều gợi lên nhiều cảm xúc mới mẻ. Hai từ Mường Hịch có vẻ có điều gì đó hoang dã, bí ẩn, trong khi Mai Châu lại thanh nhẹ như hương sắc. Những hình ảnh như “sương”, “hoa” trước kia thường gắn với tình yêu, bây giờ lại hiện hữu trong cuộc chiến của quân đội, với những phút giây lãng mạn giữa những chặng đường gian truân và mệt mỏi. Có vẻ như thiên nhiên đã ban tặng cho lính một chút hương hoa, giúp họ có sức mạnh vượt qua núi đèo, đối mặt với khó khăn, và chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng:
“Sài Khao sương phủ đoàn quân mệt mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm khuya”
Sự lãng mạn của ngôn ngữ thơ còn được thể hiện qua những âm điệu sâu lắng, sau những giai điệu dữ dội. Nhà thơ trở lại với những kỷ niệm về con người và làng quê thân thương:
“Nhớ nhung Tây Tiến, khói bốc lên
Mai Châu mùa em thơm hương nếp xôi”
Sợi khói ấm áp giữa rừng núi hoang vu, đó là biểu tượng cho cuộc sống của những chiến sĩ. Kỷ niệm trôi vào giấc mơ: “Mai Châu mùa em thơm hương nếp xôi”. Câu thơ sử dụng từ ngữ lạ, nhưng khi được đặt trong bối cảnh đúng, nó truyền tải ý nghĩa đặc biệt. Từ “em” không còn xa lạ, nó đã được Quang Dũng trao lại sự tinh khiết ban đầu. Hương nếp hay hương của em đã làm lay động cả rừng núi, làm lay động cả trái tim của con người?
Những câu thơ tiếp theo tạo nên một bức tranh mới với những nét ngôn ngữ lãng mạn:
“Doanh trại thắp sáng đêm hội hoa lửa
Nàng xiêm áo xinh tươi ấy từ khi nào
Khèn reo vang vọng, nàng dịu dàng e ấp
Nhạc vang về Viên Chăn đong đầy tâm hồn thơ”.
Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được thể hiện qua việc mô tả những điều mới mẻ: trang phục lạ (xiêm áo), giai điệu lạ (man điệu), hình dáng lạ (nàng e ấp). Một đêm hội đuốc hoa lạ lùng giữa rừng núi biên cương. Các từ ngữ mà Quang Dũng sử dụng không chỉ thể hiện sự lạ mà còn gợi lên hương vị lãng mạn, thi vị của đêm hội đuốc hoa.
Người lính Tây Tiến lại trải lòng, suy tưởng của mình về Hà Nội, quê hương thân thương của hầu hết binh đoàn Tây Tiến:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ngát”
Câu thơ mới mẻ đầy lãng mạn! Những chàng trai Hà Nội, những người “chưa trắng nợ anh hùng” ra đi chiến đấu làm sao không mang theo hình bóng của một “dáng kiều thơm ngát” nào đó, hoặc bóng dáng của người thân yêu. Một chút lãng mạn như thế đủ làm cho tinh thần của người lính Tây Tiến được nuôi dưỡng trong cuộc chiến gian khổ, hy sinh. Bốn dòng thơ mơ mộng này cũng nằm trong cấu trúc tổng của bài thơ “Tây Tiến”, là sự kết hợp của những yếu tố ngược - xuôi: ý chí và hành động của con người đi ngược về hướng tây, nhưng tình cảm thì vẫn luôn lưu luyến về quê hương.
Ngoài vẻ đẹp của ngôn ngữ cổ điển và lãng mạn, ngôn ngữ thơ của Quang Dũng còn thể hiện sự độc đáo qua việc sử dụng từ ngữ đặc biệt, âm điệu hùng tráng và biện pháp tu từ phong phú mà màu sắc biểu cảm.
Cách chọn từ ngữ thông minh, tinh tế đã khiến cho mỗi câu thơ trong bài không hề thưa thớt, phẳng lặng; mà ngược lại, mỗi câu đều có sức mạnh riêng, tạo nên bầu không khí chung cho bài thơ, một bầu không khí mạnh mẽ, hoang dã và dũng cảm. Chỉ cần vài chi tiết, vài câu thơ, Quang Dũng đã gợi lên được cảnh sắc, qua đó truyền tải cảm xúc:
“Sài Khao sương che đoàn quân mệt mỏi
Bên đó, khói cồn mây súng hướng về trời”
“Sài Khao sương che đoàn quân”, câu thơ này tạo nên cái đẹp từ sự tương phản giữa khói “sương” (mờ ảo) và “doàn quân” (oai hùng). Thêm vào đó chữ “mệt mỏi”, cái đẹp mơ hồ, lãng mạn tan biến, câu thơ trở nên trầm trọng với hình ảnh hiện thực của sông. “Sương” không chỉ là mờ ảo mà còn ám chỉ sự ẩm ướt, lạnh lẽo của rừng. “Doàn quân” không mang vẻ oai hùng trên sân khấu mà thay vào đó là “doàn quân” mệt mỏi vì đường xa, bụi bặm, đói khát và cả gian khổ. Đẹp ở đây là cái đẹp của hiện thực, không phải là sự lung linh hào nhoáng. Quang Dũng đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng của từ ngữ, bao gồm cả nghĩa lẫn âm thanh. Tên “Sài Khao” có vẻ cũng ảnh hưởng đến sự “mệt mỏi” của đoàn quân, tương tự như các từ “Mường Hịch” trong câu: “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” hoặc “Mai Châu” trong câu: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Hiệu ứng của thơ là một ảnh hưởng tức thì, ấn tượng, trực giác, được hòa nhập từ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố ngôn từ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bài thơ “Tây Tiến” là minh chứng sống động cho việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách hợp lý và độc đáo, tạo nên sự xuất sắc và tuyệt vời cho tác phẩm.
Thanh âm, nhịp điệu của bài thơ “Tây Tiến” giống như một bản hòa tấu đa dạng, phong phú, nhiều cảm xúc. Các âm vang (“dốc”, “khúc”, “khuỷu”, “thẩm”) miêu tả ngược thể hiện sự hiểm trở của dãy núi. Và đặc biệt là miêu tả chiều sâu để diễn tả chiều cao của “dốc lên khúc khuỷu”
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thâm thúy”
Những câu thơ như những nốt nhạc nhảy múa trên giấy. Quang Dũng thường thể hiện sức mạnh bên trong qua các động từ mạnh mẽ, tạo điểm nhấn ấn tượng cho tác phẩm của mình:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sức mạnh, cảm hứng của câu thơ này nằm ở những từ “gầm” và “khúc độc hành”. Tiếng vang đầy uy lực và thống trị mọi ngóc ngách của thiên nhiên được sinh ra từ những tiếng động câm lặng của con người. Do đó, bài thơ mang trong mình tinh thần anh hùng ngay giữa nỗi đau buồn.
Quang Dũng đã sử dụng các biện pháp tu từ một cách thông minh, làm cho ngôn ngữ thơ trong bài “Tây Tiến” trở nên sống động hơn. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một cách nhân hóa sáng tạo và đồng thời cũng là một cách diễn đạt hài hước như anh Vệ quốc quân thuở ấy. Ba từ này đã trở thành trung tâm hoành tráng của bức tranh về những khó khăn, với con người là trung tâm. Nhà thơ cũng đã sử dụng một loạt từ miêu tả có giá trị cao về biểu cảm: “chơi vơi” để diễn tả nỗi nhớ, “khúc khuỷu”, “thâm thúy” với dốc và đồi; “heo hút” những đám mây, hoa “đong đưa.” trên dòng nước lũ, “rải rác” những nấm mồ xa xứ...
Quang Dũng, khi tham gia kháng chiến cùng đoàn quân Tây Tiến, mang trong mình tư cách là một trí thức với tâm hồn nghệ sĩ. Khi viết thơ, ông đã mang hồn thơ của những nhà thơ cổ điển như Lí Bạch, Đỗ Phủ trong lòng. Âm điệu quyến rũ của các nhà thơ hiện đại như Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu cũng vang lên trong tác phẩm của ông. Các nhà thơ cổ điển đã làm phong phú ngôn ngữ thơ cho tinh thần kháng chiến mới của Quang Dũng. Qua nghệ thuật tinh tế, Quang Dũng đã vẽ nên bức chân dung của người lính Tây Tiến. Xúc cảm của ông được thể hiện qua ngôn ngữ thơ tinh tế, đẹp đẽ.
Nhìn lại cuộc kháng chiến chống Pháp, ta nhận thấy nhiều sự thiếu thốn, gian lao, thô sơ, ấu trĩ trong cuộc sống, nhưng vẻ đẹp lý tưởng của con người lại rực rỡ. Bài thơ “Tây Tiến” với ngôn ngữ đẹp đã phản ánh một cách tinh tế và sắc nét hiện thực của cuộc sống kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ trong bài “Tây Tiến” - Mẫu 2
Như là cơn gió đang mênh mang, là những đám mây xanh thẳm mang theo nỗi nhớ vô tận đi xa hàng dặm... Vẫn vương vấn trong lòng người bài hát độc mạnh của sông núi vang lên những lời vĩnh quyết trầm hùng... Đã hơn bốn mươi năm trôi qua kể từ khi bài thơ “Tây Tiến” xuất hiện, nhưng dư âm đó vẫn nguyên trong ký ức của những ai đã cùng đoàn binh “chiến trường đi không hối tiếc cuộc đời xanh”. Liệu có phải là vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ đã tạo ra sức sống kiên cường cho “Tây Tiến” không?
Ngôn ngữ là công cụ chính để biểu hiện đặc tính của văn chương. M. Gorki từng viết: “Yếu tố quan trọng nhất của văn học là ngôn ngữ - công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện, các hiện tượng trong cuộc sống - là vật liệu của nó”. Tính chính xác, hàm súc và hình tượng là đặc điểm chung của ngôn ngữ văn học. Tuy nhiên, trong mỗi thể loại và từng tác phẩm, những đặc điểm này được thể hiện theo các cách khác nhau, và mỗi tác phẩm mang vẻ đẹp riêng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thơ ca có thể coi là biểu tượng của ngôn ngữ văn học. Vì các đặc điểm như sự chính xác, sức sống, tính hình tượng được thể hiện một cách tập trung nhất trong thơ ca. Pautopxki đã từng nói: “Những từ phác thảo nhất mà chúng ta đã dùng đến cạn cùng, mất hết tính chất hình tượng đối với chúng ta, nhưng trong thơ ca, những từ ấy lại tỏ ra rực rỡ, rơi rụng và tỏa hương”. Vì vậy, ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của các đồ trang sức hoặc trò chơi phù phiếm, mà là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn và phản chiếu từ cuộc sống, thông qua sự mài dũa và tinh luyện của nhà thơ. Trong “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta thấy một vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca như vậy!
“Sông Mã đã xa, ơi Tây Tiến
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Tôi nhớ ngay đến hai câu thơ của Bích Khê:
“Chiều bước trên đồi, êm như tơ
Chiều đi trong lòng, êm như mơ”
Cảm nhận bước chân của chiều, Bích Khê sử dụng những từ thanh bình để gợi lên cảm giác êm dịu, yên bình trong không gian và trong tâm trí, cảm giác nhẹ nhàng ấy như được tái hiện qua ba từ “nhớ chơi vơi” của Quang Dũng. Nỗi nhớ là một khái niệm trừu tượng, rất khó nắm bắt từng cung bậc của nó. Vậy mà thi sĩ đã gọi tên và định hình nó, biến cái vô hình thành cái hữu hình. Giống như là sương, là khói, chỉ mỏng manh thôi... Giống như sắp tan biến, chập chờn ẩn hiện nỗi “nhớ chơi vơi” lơ lửng như chòm mây phiêu lãng mải miết đi về cố hương. Để nói lên như vậy, phải có một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, tác giả mới thốt lên như thế.
Bắt nguồn từ nhu cầu thiết yếu của văn học là phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca được tạo nên từ sự trong trắng, chính xác. Đó là khả năng diễn đạt chính xác ý muốn của thi nhân, mô tả đúng cái mà tác giả muốn tái hiện. Trong “Tây Tiến”, mặc dù không có từ “chết” nhưng ta vẫn gặp rất nhiều khái niệm chỉ về sự kết thúc:
“Ngã lên súng mũ bỏ lãng quên đời”
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Lụa thay chiếu anh về đất”
“Tây Tiến người đi không ngày đến”
Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), chủ đề về cái chết ít được đề cập. Có lẽ người ta đã đặt cho Quang Dũng cái biệt danh là “bi luỵ; sầu não” mà ít ai để ý đến giá trị thực sự của bài thơ. Các ý niệm về cái chết mà thi nhân sử dụng giúp ta cảm nhận được những điều tác giả muốn diễn đạt về hiện thực. Mỗi lần sử dụng các ý niệm này, tác giả đều thể hiện sự điêu luyện trong việc sử dụng ngôn ngữ. Người lính “gục lên mũ súng bỏ lãng quên đời” nhưng vẫn thực hiện nhiệm vụ canh gác giữa trời đất. Hình ảnh những nấm “mồ viễn xứ” mang lại cảm giác lạnh lẽo, khốc liệt, cho ta thấy sự tàn khốc của chiến tranh. “Anh về đất” gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Những từ ngữ trong sáng, chính xác cũng là sự sáng tạo độc đáo của tác giả. Trong suốt bài thơ “Tây Tiến”, ta còn gặp nhiều từ ngữ được sử dụng rất chính xác mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Miêu tả về thời gian, Quang Dũng không sử dụng các khái niệm mùa quen thuộc, ông sáng tạo hình ảnh “mùa em”. Xuân, hạ, thu, đông là mùa của mọi người. Nhưng “mùa em” chỉ thuộc về riêng Quang Dũng. “Mùa em” là mùa gắn với hương nếp Mai Châu hay tình yêu người Tây Bắc. Không viết “hoa nở” mà là “hoa về”. “Hoa về” ẩn chứa niềm vui hân hoan của hoa, của con người. Không viết “bông lau” mà là “hồn lau”. Có lẽ mảnh đất Tây Bắc, “xứ thiêng liêng” đã gắn bó với tâm hồn thi nhân. Mỗi bờ cây ngọn cỏ đều có linh hồn. “Hồn lau” ẩn chứa cả tình sâu nặng, niềm xúc động khi nhớ về Tây Tiến.
Maiacốpxki đã viết:
“Phải phí tốn ngàn cân quặng chữ
Mới thu được một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Sử dụng từ ngữ phù hợp với đối tượng miêu tả hoặc tạo ra ngữ cảnh phù hợp để từ ngữ bộc lộ ý nghĩa của nó là bản chất của tính chính xác. Ai cũng sẽ nhớ những câu thơ
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hai từ “khúc khuỷu”; “thăm thẳm” được đặt gần nhau trong một câu thơ là điều hiếm gặp. Chúng tạo nên hình ảnh của sự dốc lên cao, cao mãi như dựng đứng giữa đất trời, rồi đột nhiên chạm vào mây xanh. Đất và trời gặp nhau nhờ dấu chân của người lính.
Không chỉ chính xác, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca còn tỏa sáng từ sự cô đọng, hàm súc, nói ít gợi nhiều. Nhớ đến nguyên lý “tảng băng trôi” của Hêminguê: Tác phẩm văn chương như một “tảng băng trôi”, bảy phần chìm và chỉ một phần nổi. Nghệ sĩ không nên làm loa phát thanh cho ý tưởng của mình mà nên diễn đạt bằng từ ngữ giàu sức gợi. Lời ít mà ý nhiều, lời cô đọng nhưng ý sâu xa. Đây là cách dùng từ hiệu quả nhất, phù hợp nhất. Xưa kia, Nguyễn Du đã “giết chết” biết bao nhân vật chính với tính hàm súc của ngôn ngữ thơ ca: Mỗi nhân vật chỉ cần một từ, Nguyễn Du đã cho ta thấy sự vô tri của Mã Giám Sinh:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chữ “tót” đắt giá đã làm nổi bật bản chất của Mã Giám Sinh. Nó gạt bỏ tất cả những hình thức “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” mà hắn mặc bên ngoài. Nói đến “Tây Tiến”, không thể không nhắc đến hình ảnh:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tại sao không phải là “súng chạm trời” hay “súng đụng trời”? Từ độ dốc thăm thẳm của đèo cao núi đá, bước chân người lính khi lên tới đỉnh không hề mệt mỏi. Họ vẫn có một cái nhìn rất lính. Sự đồng điệu trong tâm hồn lính còn cho ta bắt gặp hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu. Kỳ diệu thay ngôn ngữ thơ ca ! vẻ đẹp toát ra từ nó không chỉ có hình khối, đường nét, màu sắc, âm thanh mà còn có cả linh hồn nữa:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Van Gốc có thể để lại cho nhân loại bức họa “Hoa hướng dương” nổi tiếng. Chất liệu hội hoạ và tài năng nghệ thuật giúp ông làm điều đó. Những hội họa không thể vẽ được hình ảnh “hoa đong đưa”. Đâu chỉ là một bông hoa vô tri. Đâu chỉ là sự “đong đưa” chuyển động trên dòng nước. Ta còn được đón nhận một linh hồn hoa bé bỏng như cũng muốn làm duyên làm dáng. Ngắm “Mùa thu vàng” của Levitan thì đẹp thật đấy, nhưng có ai nghe thấy tiếng:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô”
“Thi trung hữu hoạ”, chẳng phải Đoàn Phú Tứ đã vẽ được màu thời gian đó sao? Tính đa nghĩa của từ cũng tạo nên vẻ đẹp cho ngôn ngữ thơ ca. Phải chăng, một tác phẩm văn chương vượt qua sự băng hoại của thời gian là tác phẩm luôn làm nảy sinh nhiều cách hiểu?
“Doanh trại rực lên hồi đuốc sáng ngời
Đâu đây em khoác áo từ bao giờ”
“Em” là ai? Em là một vẻ đẹp tự nhiên, là hình ảnh của sự hiện diện bí ẩn trong đêm rực sáng của lửa trại, hay đơn giản là hình bóng của một người phụ nữ đang đợi chờ trong cõi trần gian?
“Còn nhớ hình bóng dưới ánh trăng độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Hình bóng dưới ánh trăng có thể là một kỷ niệm, một ấn tượng sâu sắc, hoặc đơn giản là hình ảnh mơ mộng trong tâm trí của người thơ. Mỗi từ trong thơ đều có khả năng gợi lên một loạt tưởng tượng phong phú trong tâm trí người đọc.
Thơ là một dòng chảy cảm xúc, là tiếng nói của trái tim. Ngôn ngữ thơ có sức mạnh gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ, và 'Tây Tiến' không phải là ngoại lệ. Đọc những dòng thơ của nó, ta như được đắm chìm trong một bản giao hưởng đầy cảm xúc, đưa ta đến những khoảnh khắc cao trào của cảm xúc và tình cảm.
“Lên đỉnh khúc khuỷu cao vút thăm thẳm
Súng ngửi mùi mây, sương hòa với trời
Trên cao ngàn thước, dưới biển ngàn thước
Pha Luông xa xôi, nhà ai mưa gió”
Những câu thơ đầy tính chất “khổ độc” của Quang Dũng rất tự nhiên. Nhịp điệu của thơ biến đổi không lường trước. Chúng ta đã gặp những dòng thơ như:
“Tài cao chí thấp, lòng dũng kiêu hùng
Giang hồ mê say, quên mất quê hương”
(Tản Đà)
“Trăng ngừng lưng trời, sương theo bước chân
Tâm hồn vui tươi, tưởng tượng bay bổng”
(Xuân Diệu)
“Biển sóng tháng ba, gió đưa cánh
Hương cá đầm đậm, mùi khoai thơm”
(Xuân Diệu)
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca giống như cô gái Lọ Lem trong truyện cổ tích. Trong những dịp đặc biệt, cô ấy tỏa sáng như một nàng tiên dễ thương, nhưng hàng ngày, cô ấy bận rộn với công việc nhà, hương vị của hành và khoai mới gọt vẫn bám lấy. Ngôn ngữ thơ ca không phải là một thế giới riêng biệt so với ngôn ngữ hàng ngày. Nó thu thập những tinh hoa của ngôn ngữ thông thường, không ngừng phát triển, làm giàu thêm vốn ngôn từ chung. Chính điều này giúp nhà thơ không ngừng sáng tạo, như những nhà điêu khắc tài ba, tạo ra những tác phẩm ngôn từ có giá trị nghệ thuật. 'Tây Tiến' tồn tại và ghi điểm nhờ phần nào vào yếu tố này. Người ta đầu tiên chú ý đến hình ảnh của 'súng ngửi trời': họ nhớ và lưu giữ trong lòng những hình ảnh như 'hoa đong đưa', 'hồn lau', 'mùa em', 'hoa về'. Họ cũng xao xuyến trước thế giới mơ mộng của nỗi nhớ 'chơi vơi' đó.
Tạo hóa đã ban tặng cho con người ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Từ những giai điệu trong bài hát của người dân mạc phủ, những lời cầu nguyện, những ước mong cho mùa màng mùa xuân đến những lời ca tụng có thể xem như là hình thức sơ khai nhất của thơ. Qua thời gian, vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện, như dòng nước mát từ nguồn sáng tạo vô tận của con người.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 3
Đối với một tác phẩm văn chương, đặc biệt là thơ ca, ngôn ngữ là nguyên liệu chính. Nếu nguyên liệu tốt, tác phẩm mới có hồn. Như đã nói: “Những từ xơ xác nhất, đã cạn cùng, đã mất hết tính hình ảnh, nhưng trong thơ, chúng lại sáng lấp lánh, kêu giòn và tỏa hương”. Quang Dũng đã thành công trong việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ để thể hiện tiếng nói của trái tim ông qua bài thơ Tây Tiến.
Ngôn ngữ của bài thơ mang đậm dấu ấn của lãng mạn và hiện thực. Hai yếu tố này liên kết chặt chẽ tạo nên sự mạch lạc trong cấu trúc của bài thơ. Mỗi câu chữ trôi tự nhiên như dòng nước. Hai câu thơ sau là minh chứng rõ ràng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” tạo nên cảm giác mãnh liệt của thiên nhiên miền Tây. Lớp sương dày đặc như muốn chôn vùi, che phủ, làm mờ đi cả binh đoàn mệt mỏi trên đường hành quân. Trong khi đó, hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” thể hiện sự lãng mạn. Câu thơ chủ yếu là thanh bằng, mang lại cảm giác nhẹ nhàng, lắng đọng. Sự độc đáo trong cách diễn đạt khiến hình ảnh thơ trở nên phong phú. Những đốm sáng của đuốc hiện lên trong màn sương mờ ảo, hương hoa của núi rừng Tây Bắc lan tỏa trong đêm tối hoặc những bông hoa về cùng người lính trên con đường chiến trường.
Cảnh hiện lên đẹp như trong mộng với hương hoa quấn quýt, sương khói xua tan đi những vất vả, để lộ ra những chàng trai với tâm hồn lãng mạn và hào hoa. Điều đặc biệt ở đây là sự xen kẽ giữa hiện thực và lãng mạn: nếu câu trên thể hiện sự hiện thực đến trần trụi, thì câu dưới lại mơ màng và lung linh. Sự đối lập này cùng cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng tạo ra những hình ảnh đẹp trước một hiện thực khắc nghiệt. Không chỉ thiên nhiên hiện lên trên hai thái cực đó, mà cả hình ảnh những chiến sĩ vững vàng trong cuộc kháng chiến cũng trỗi dậy giữa từ ngôn từ lãng mạn và hiện thực:
“Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu da dữ oai hùm
Mắt trừng nhìn biên giới mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Cuộc sống trên chiến trường có bao giờ đủ đầy? Thiếu thốn, cảm giác lạnh lẽo nơi rừng sâu xa lạ; những dòng suối lạnh giá rửa chân, gội đầu. Hiện thực đó đã trở thành điều phổ biến trong cuộc chiến:
“Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Những cơn sốt rét của rừng đồng bào cướp đi mái tóc xanh của tuổi trẻ, những thân hình cường tráng giờ đây trở nên mong manh, những làn da tái xanh vì đói khát, bệnh tật. Tất cả được tái hiện dưới nét vẽ chân thực, nhưng không phải bức chân dung của từng lính mà là của cả một đoàn quân. “Không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc” – cách diễn đạt này khiến người đọc cảm nhận sự quyết đoán, sức mạnh của đoàn quân, thể hiện sự kiêu hãnh và gan dạ. Màu xanh ở đây không chỉ là màu sắc của ngụy trang mà còn là màu da - kết quả của cuộc sống khắc nghiệt trên chiến trường. Hiện thực không thể làm mờ sức mạnh phi thường của đồng đội. Đó là sự vĩ đại của những chiến binh dũng mãnh “dữ oai hùm” giữa rừng sâu.
Ẩn sau dáng vẻ nhỏ nhắn là sức mạnh, kiêu hãnh. Chỉ bằng mười bốn chữ, Quang Dũng đã khắc họa một đoàn quân phi thường, độc đáo trong lịch sử. Người lính được mô tả với sự mơ mộng và hiện thực. Mơ về chiến thắng, mơ về danh vọng và những kỷ niệm về Hà Nội “dáng Kiều thơm” – biểu tượng của quê hương, là nguồn động viên cho tâm hồn họ vượt qua khó khăn trước khi “tiến về miền Tây”. Trái tim của người lính đong đầy sự căm hận với kẻ thù nhưng cũng chứa đựng nhiều tình yêu thương. Sự xen kẽ giữa ngôn từ lãng mạn và hiện thực tạo ra một ngôn ngữ cổ điển, đậm chất nghệ thuật, thể hiện sự đẹp đẽ trong nỗi nhớ của nhà thơ:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”.
Câu thơ này làm nổi bật điều phi thường, không khác gì câu thơ “Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước” của Lí Bạch. Từ “ngàn thước” kết hợp với “ngàn thước lên” và “ngàn thước xuống” tạo ra một bức tranh vững chãi, bất ngờ, với những vách núi cao và sâu, tạo ra một hình ảnh gấp khúc đầy mạo hiểm. Thiên nhiên miền Tây khắc nghiệt được tường minh qua câu thơ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”.
Các người lính Tây Tiến chiến đấu và hy sinh, nằm xuống trên chiến trường. Những nghĩa trang của họ nằm rải rác dọc biên giới, nơi xa lạ, lạnh lẽo, cô đơn. Tuy nhiên, Quang Dũng không muốn tập trung vào nỗi đau mất mát mà chỉ muốn thể hiện sự thật. Thiên hạnh thơ 4/3 và các từ Hán Việt “biên cương”, “mồ viễn xứ” tạo ra một không khí cổ kính, trang trọng, giảm bớt đi sự lạnh lẽo, bi thương. Câu thơ này không chỉ nói về sự hy sinh mà còn về tình yêu thương và sự cao quý của những chiến sĩ vệ quốc.
Cách tiếp cận thông thường của cuộc sống đề cập đến cảm xúc thân thuộc, gần gũi với một phong cách quân nhân:
“Bạn ấy dường như không muốn tiến thêm nữa”.
Điều đặc biệt là cách mà nhà thơ sử dụng các địa danh đáng chú ý: “Lâm Đồng”, “Đà Lạt”, “Pleiku”,… không chỉ để tạo ra ấn tượng cụ thể mà còn làm cho môi trường núi non phía bắc trở nên gần gũi hơn. Như Trần Lê Văn đã nói: “Chỉ cần đọc thôi đã cảm thấy mệt mỏi, chân tay đau nhức”. Điều này làm cho một sự bí ẩn, một cái u tối của đất nước xa xôi hiện ra rõ ràng hơn. Tiếng âm, nét nhạc của bài thơ giống như một bản hòa tấu với nhiều tông màu, nhiều cảm xúc. Những đoạn nhạc có thể liên tục kéo dài hoặc đứng lên một cách tôn nghiêm:
“Vượt qua khúc cua uốn cong sâu thẳm
Ngôi nhà ở rất xa xa ẩn sau cơn mưa Pha Đin”.
Bằng cách sử dụng toàn bộ thanh âm, nhà thơ muốn truyền đạt sự gập ghềnh, gay gắt của thiên nhiên miền Tây. Câu thơ được chia thành các phần nhỏ để độc giả có thể cảm nhận được hơi thở nặng nhọc, sự gián đoạn của người lính trên con đường của họ. Nhưng với những đoạn nhạc được cân đối, nhà thơ muốn mở ra một không gian êm đềm, yên bình, gợi lên hình ảnh của cảnh đẹp, giống như một hơi thở nhẹ nhàng của người lính sau khi họ dừng lại trong chuyến hành quân.
Quang Dũng cũng thể hiện cảm xúc bằng cách sử dụng các động từ mạnh như điểm nhấn ấn tượng cho âm nhạc của mình:
Con sông vang lên trong bài hát của riêng nó
Tiếng vang và âm nhạc của riêng con sông - điều này là cái mạnh mẽ và vững chắc, nắm giữ và chiếm lĩnh một phần của thiên nhiên và đất đai, đây là kết quả của những nỗi đau câm lặng mà con người gánh chịu. Khi đồng đội gục ngã, không chỉ có các người lính mà cả núi rừng miền Tây đều đang vang lên tiếng gào thét trong nỗi đau.
Ngôn từ của nhà thơ tạo ra các hình ảnh phong phú, được tạo ra bằng nhiều kỹ thuật khác nhau, tạo ra một loạt các vẻ đẹp đa dạng. Hình ảnh của thiên nhiên không chỉ là đơn giản: đôi khi là mạnh mẽ và hoang sơ, đôi khi lại là dịu dàng và lãng mạn. Tuy nhiên, chúng không phải là tách biệt mà là hòa hợp, bổ sung cho nhau. Đặc biệt là hình ảnh:
Con heo chạy lên trên đỉnh đồi mùi hương cồn sương
Nó gợi lên đỉnh cao của những ngọn núi, cao đến mức chạm vào bầu trời mây, tạo nên những bức tranh nổi bật, như là những đám mây bay, mũi súng hướng về phía trời. Từ đó, hình ảnh này đưa người lính lên một tầm cao mới, ẩn chứa trong đó là niềm vui tươi tinh nghịch của chàng trai trẻ, người tự hào về chiến thắng của mình. Đó là một chiến thắng của lòng dũng cảm, ý chí kiên định. Vậy là, những bước chân của chàng trai Hà thành, người từng “đổi bút nghiên lấy binh đao”, có thể vẫn đặt lên đỉnh cao của những ngọn núi Tây Bắc xa xôi, trong tư thế làm chủ:
Hình ảnh thật đẹp trong ánh nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc khúc khuỷu
Núi không còn là rào cản đối với sự vươn lên
Lá cây ngụy trang hòa nhịp với gió thổi trên đèo
(Trích từ thơ của Tố Hữu)
Sau loạt những âm thanh mạnh mẽ của bản hòa tấu, nhà thơ quay về với những kỷ niệm về con người và làng quê thân yêu cùng những cảm xúc sâu lắng:
“Nhớ về rừng núi, nhớ về những kỷ niệm buồn vui
Nhớ cái hương của bữa cơm đơn sơ ở Tây Tiến
Mai Châu với mùa hoa thơm nức nở
Sông Mã xa xăm rồi, ơi Tây Tiến ơi!”
Giọng thơ tha thiết được thể hiện thông qua sự kết hợp của từ ngữ “ơi” và dấu “!” khiến nỗi nhớ đầy cảm xúc như làm cào xé lòng người. Nỗi nhớ như bùng cháy đến mức không thể kiềm chế, buộc nhà thơ phải thốt lên thành lời. Sự sử dụng tinh tế của từ ngữ “ơi” (chơi vơi) tạo ra tiếng gọi đầy tha thiết, vang vọng xa xôi, truyền đến tận những tảng núi, không gian rồi quay trở lại lòng trung tâm của nhân vật lãng mạn. Nỗi nhớ “chơi vơi” đã trải dài suốt bài thơ, trở thành nguồn cảm hứng chính của nó. Có lẽ vì vậy mà ở cuối khổ thơ thứ nhất, nhà thơ nhắc lại “Nhớ ôi Tây Tiến”. Sau nỗi nhớ, ký ức hiện ra. Sợi khói ấm nơi rừng núi hoang vu, đó chính là tinh thần của cuộc sống chiến đấu, không gì có thể quên được? “Mùa em” là mùa nào? Mùa lúa mới ở Mai Châu, mùa nào của riêng em hay mùa anh gặp em?.... Và mùi thơm ấy là mùi thơm của Mai Châu hay là hương thơm dịu ngọt, đầy lãng mạn từ bàn tay của cô gái Mai Châu – một hình ảnh Kiều thơm mùi của vùng Mường mà những người lính Tây Tiến không thể nào quên được? Chữ “em” không có gì mới mẻ nhưng nếu thay bằng bất kỳ chữ nào khác, câu thơ sẽ mất hết linh hồn. Không phải “mùa em” sẽ là mùa gì? Như Pautopxki đã nói, sự sáng tạo trong cách diễn đạt của nhà thơ đã làm sống lại cho chữ “em” cái tinh khiết ban đầu.
Quang Dũng đã thể hiện tài năng của mình trong việc chọn lựa và sử dụng từ ngữ thông qua các kỹ thuật tinh tế. Xúc cảm của nhà thơ được nuôi dưỡng bằng ngôn ngữ mang đậm vẻ đẹp hiếm có.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ trong bài Tây Tiến - Mẫu 4
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc; những thành tựu văn chương của ông vẫn là điển hình nhất. Trong số các nhà thơ hàng đầu trong thời kỳ chống Pháp, mọi người đều nhớ đến Quang Dũng với một phong cách thơ lãng mạn, hào hoa kết hợp với phong cách cổ điển, và ông đã tạo nên những tác phẩm kinh điển: Đôi mắt người Sơn Tây, Đường mưa chiều số 5, Tây Tiến. Tây Tiến được coi là một trong những bài thơ hay nhất của Quang Dũng, và là một trong những tác phẩm thơ văn nổi tiếng nhất về người lính chống Pháp. Bài thơ được viết vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh sau thời gian dài rời khỏi đơn vị Tây Tiến. Ngoài giá trị về nội dung, Tây Tiến còn đạt được những phẩm chất nghệ thuật đặc sắc, trở thành điểm cao nhất trong sự phát triển của thơ hiện đại Việt Nam.
Thơ là đôi cánh thiên thần bay trên những mảng màu của cuộc sống hiện thực. Với Quang Dũng, điều này đúng hơn cả, ít nhất là trong bài thơ Tây Tiến. Có thể nói, thành công nghệ thuật của tác phẩm này chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Bút pháp hiện thực giúp người đọc nhận ra không gian của những ngọn núi hùng vĩ, cuộc sống đầy gian khổ và đau khổ mà người lính Tây Tiến phải trải qua. Bút pháp lãng mạn tô điểm thêm vẻ đẹp phi thường, dữ dội cũng như sự mỹ lệ của thiên nhiên rừng núi; đồng thời, nhìn nhận được vẻ đẹp bi tráng, lãng mạn và hào hoa của hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc chiến cứu nước vĩ đại.
Thiên nhiên miền Tây, với núi cao và vực sâu, đầy gian khổ và nguy hiểm, qua ngòi bút của Quang Dũng, đã trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm hồn của người đọc khi đối diện với bài thơ Tây Tiến. Tuy nhiên, hiện thực khốc liệt ấy đã được bút pháp lãng mạn của nhà thơ đưa lên tầm cao mới, tạo ra một tác phẩm tuyệt vời, tuyệt mỹ. Núi cao vững chãi “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, chạm tới mây bay khi súng lính “ngửi trời” ở tầng không xa xôi. Đường dốc quanh co, khúc khuỷu khi nhìn lên; thăm thẳm vực sâu khi nhìn xuống, tạo ra một sự đối lập thú vị, nổi bật gian khổ mà con người phải vượt qua. Tuy nhiên, trên nền của hiện thực đời sống chiến đấu, Quang Dũng đã tạo ra một thiên nhiên đầy nghệ thuật bằng những câu thơ tuyệt vời.
Câu thơ 'Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm', 'Heo hút cồn mây súng ngửi trời', 'Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống', 'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi' là hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ được mô tả một cách hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Tuy nhiên, câu thơ cuối cùng 'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi' mang một vẻ đẹp thuần khiết, là cảm xúc của tâm hồn, là một cánh thơ bay cao với đôi cánh của cảm xúc lãng mạn. Tất cả tạo ra một bức tranh về hồn thơ của Quang Dũng, là tiếng nói phát ra từ sự trải nghiệm cảm nhận hiện thực, được biểu hiện và tạo dựng từ ước mơ và khát vọng vô cùng.
Quang Dũng không chỉ tuyệt đối hóa vẻ đẹp hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên miền Tây thông qua bút pháp lãng mạn, mà còn nhìn nhận nó với con mắt của một thi sĩ tài hoa và giàu cảm xúc. Một loài hoa nở trong đêm ẩm sương, những mái nhà thấp thoáng trong làn mưa nhẹ và “hồn lau” trôi dạt trên con đường bên bờ..., tất cả trở thành một vùng ký ức đẹp và thơ mộng. Nếu đoạn thơ đầu miêu tả thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội và khắc nghiệt, thì đoạn sau lại mang một vẻ đẹp hiền hòa, êm đềm và lãng mạn.
Cảnh chiều sương ở Châu Mộc, với câu thơ 'Người đi Châu Mộc chiều sương ấy', 'Có thấy hồn lau nẻo bến bờ', 'Có nhớ dáng người trên độc mộc', 'Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa', là một ví dụ điển hình cho cái nhìn tinh tế và tài hoa của tác giả. Một lần nữa, Quang Dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để tạo ra một hình ảnh đẹp và lãng mạn của thiên nhiên miền Tây.
Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ đơn thuần mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây mà còn thể hiện sự nhạy cảm và giàu cảm xúc thông qua cách nhìn của mình. Những hình ảnh như hoa nở trong đêm sương, mái nhà bên bờ sông trong làn mưa nhẹ và “hồn lau” trôi dạt trên con đường..., tất cả đã tạo ra một không gian ký ức êm đềm và thơ mộng trong lòng đọc giả. Bút pháp của Quang Dũng không chỉ đơn thuần là một công cụ mô tả mà còn là một cánh cửa để mở ra thế giới đẹp đẽ và lãng mạn của thiên nhiên.
Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã sử dụng sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn để mô tả bức tranh thiên nhiên chiều sương thơ mộng tại Châu Mộc. Những hình ảnh 'hồn lau' trôi dạt trở thành những điểm nhấn tinh tế, mang lại sự huyền bí và cảm xúc cho thi nhân và người đọc. Dù nước lũ cuồn cuộn, nhưng hình ảnh 'đong đưa', trôi nhẹ nhàng thể hiện sự kỳ diệu của tâm hồn. Tất cả tạo nên một sự đối lập hài hòa giữa sự mạnh mẽ và mềm mại, trữ tình trong bức tranh thiên nhiên.
Bằng cách kết hợp giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh người lính Tây Tiến với tinh thần dũng mãnh và vẻ đẹp lãng mạn. Đoạn thơ đầu tiên đã giới thiệu chân dung người lính Tây Tiến một cách rõ ràng, đặt trên nền của thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Đó là những khoảnh khắc của cuộc sống hàng ngày trong đoàn quân, thể hiện sự gắn bó và tình cảm lãng mạn giữa các lính.
Trong những khoảnh khắc dãi dầu và hội đuốc hoa, người lính Tây Tiến hiện lên như những người trẻ trung, yêu đời và lãng mạn. Đó là những phút giây đầy ấn tượng và cảm xúc, nơi tình yêu và hy vọng rực cháy giữa cuộc sống gian lao và vất vả của họ.
Trong cuộc sống hàng ngày tại doanh trại, người lính Tây Tiến tỏ ra vui vẻ và sôi động, đặc biệt trong những buổi liên hoan văn nghệ. Đó là khoảnh khắc của niềm vui và hạnh phúc, nơi họ tận hưởng những giây phút thư giãn và tiếp tục nghịch ngợm, đùa giỡn dưới ánh sáng của đuốc hoa.
Cuộc sống trong doanh trại của người lính Tây Tiến đầy ấn tượng và lãng mạn, với những khoảnh khắc đặc biệt như hội đuốc hoa. Đó là lúc mọi người tụ tập, giao lưu và tận hưởng những giây phút vui vẻ và hạnh phúc bên nhau.
Trong buổi chiều sương tại Châu Mộc, hình ảnh vượt thác xuôi dòng nước lũ 'hoa đong đưa' trở nên rất ấn tượng. Nhưng chỉ khi miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, ta mới thấy đầy đủ nhất hình ảnh sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng.
Bằng những dòng thơ rất đặc sắc, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến một cách sinh động. Từ 'Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc' đến 'Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm', mỗi câu thơ đều chứa đựng nhiều cảm xúc và hình ảnh sắc nét.
Qua bút pháp lãng mạn của nhà thơ, hình ảnh người lính Tây Tiến trở nên lãng mạn và hào hoa. Từ hình ảnh 'đoàn binh không mọc tóc' đến 'quân xanh màu lá dữ oai hùm', mỗi câu thơ đều thể hiện sự mạnh mẽ và kiêu hãnh của họ.
Không chỉ miêu tả bên ngoài, nhà thơ còn lột tả tâm hồn người lính Tây Tiến một cách sâu sắc. Hình ảnh 'mắt trừng gửi mộng qua biên giới' gợi lên nỗi nhớ xa xăm và da diết của họ.
Bằng những dòng thơ đầy cảm xúc, nhà thơ đã khắc họa những khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc sống của người lính Tây Tiến. Từ 'Rải rác biên cương mồ viễn xứ' đến 'Sông Mã gầm lên khúc độc hành', mỗi câu thơ đều thể hiện sự dũng cảm và hy sinh của họ.
Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng mô tả sự hi sinh của người lính một cách rất chân thực. Hình ảnh 'Rải rác biên cương mồ viễn xứ' làm nổi bật sự mất mát và đau buồn của cuộc chiến tranh.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến không chỉ gợi lên ý chí sống và chiến đấu mạnh mẽ mà còn có vẻ đẹp lãng mạn. Dòng sông Mã 'gầm lên khúc độc hành' như một biểu tượng cho sự kiên cường và trường tồn.
Qua bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã thành công trong việc kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn. Người lính Tây Tiến không chỉ là những chiến sĩ dũng cảm mà còn là những người mang trong mình những ước mơ và khát vọng.
Bằng cách sử dụng những hình ảnh đậm chất quê hương, Quang Dũng đã tạo ra một bức tranh ấm áp và thơ mộng về cuộc sống của người lính. Hình ảnh 'Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói' gợi lên hình ảnh ấm áp của một bữa cơm quê hương.
Một đêm văn nghệ ấm áp với khúc hát và điệu khèn đầy sôi động, tươi vui. Đó là khoảnh khắc mà tinh thần quân dân được nâng cao và tôn vinh.
'Khèn hò man mác đưa ta về
Nhạc thổ dân ngân vang Viên Chăn'.
Một hình ảnh cuộc vượt thác trong chiều sương tại Châu Mộc, đong đưa và đẹp như trong tranh.
'Có nhớ dáng người trên con thuyền
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa'.
Bút pháp và cảm hứng của Quang Dũng được tạo dựng trên nền tảng của cảm xúc sâu lắng về miền Tây, tạo nên những câu thơ đầy tài hoa và ấn tượng.
Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng không chỉ thành công về mặt bút pháp mà còn phản ánh giọng điệu nghệ thuật đặc trưng của nó. Những đoạn thơ giàu sắc thái này giúp người đọc hiểu rõ hơn về cảm xúc và không gian của bài thơ.
Hai câu thơ đầu mở ra một giọng điệu sâu lắng, thấm đẫm nỗi nhớ của tác giả.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hai từ 'xa rồi' đưa ta đến với nỗi mất mát và nỗi nhớ sâu đậm. Thán từ 'ơi!' đầy cảm xúc kêu gọi đến lòng người nhớ thương. Cụm từ 'nhớ chơi vơi' như tường minh hóa cho nỗi nhớ mà càng thêm vương vấn, đau đớn. Từ 'chơi vơi' âm thanh dài như nỗi hy vọng không tan phai, đầy xót xa. Chính những kỹ thuật thơ này tạo ra một giọng điệu đặc trưng cho bài thơ, truyền tải cảm xúc nhớ thương.
Nỗi nhớ ban đầu là hình ảnh núi rừng miền Tây và người lính Tây Tiến trên nền không gian hùng vĩ và nên thơ. Cảm xúc tự nhiên trào dâng, nhà thơ không kìm nén được lòng, thể hiện trong những câu thơ ngập tràn niềm hi vọng. Dù biết không thể quay lại quá khứ, nhưng giọng thơ vẫn tha thiết đến đau đớn. Tây Tiến 'xa rồi', mọi thứ chỉ còn trong hoài bão, nên mỗi địa danh, mỗi phong cảnh, đều như có hồn và đau đớn. Làn sương dày đặc như che lấp đoàn quân mệt mỏi ở Sài Khao hiện lên trong kí ức: 'Sài Khao sương mù đầy đoàn quân mệt'. Cánh hoa mỏng manh hé nở trong đêm sương ở Mường Lát vẫn lan tỏa chút lạnh vào lòng người nhớ: 'Mường Lát hoa nở trong đêm sương'. 'ơi' âm thanh dài mãi trong tâm trí, ngay cả trong những phút gian khổ nhất của người lính Tây Tiến:
'Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'.
Quả vậy, trong đoạn thơ đầu, giọng điệu bồi hồi, tha thiết như dòng suối mát lành chảy vào tâm hồn tác giả, tự nói lên để mô tả một cảnh thiên nhiên miền Tây hoang sơ, hùng vĩ và cũng đầy thơ mộng, trữ tình. Giọng điều ấy càng diễm lệ hơn ở cuối đoạn khi nhà thơ nhớ về một khung cảnh yên bình, ấm áp tình quân dân giữa mùa nếp xôi ở Mai Châu quê em xinh đẹp:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Trên nền cảm xúc hoài niệm, giọng thơ bồi hồi, tha thiết, nhưng đến đoạn thơ thứ hai khi nhà thơ nhớ về một đêm văn nghệ lãng mạn và hào hoa trên nước bạn Lào, giọng điệu trở nên vui vẻ, hồn nhiên hơn. Tiếng nhạc, tiếng khèn trong ánh lửa hồng rực sáng của 'đuốc hoa', những nàng thiếu nữ tròn trăng yểu điệu, e ấp múa hát say mê khiến người lính như lạc vào cõi tiên cổ tích. Lãng mạn và hào hoa, tiếng thơ bay vút giữa lòng người ấm nồng tình quân dân. Quang Dũng cũng như phần lớn người lính Tây Tiến vốn sinh ra trong cảnh vật phồn hoa, tuổi trẻ tràn đầy ước mơ, hoài bão, vượt qua bao gian khó, thử thách mới có được một đêm văn nghệ vui tươi, hào hứng. Vì vậy, tất cả hòa quyện, sum vầy và mê đắm. Những câu thơ vũ điệu sắc màu hòa cùng nhịp điệu của tiếng nhạc, tạo ra cảm giác như muôn âm thanh trên thế gian bay về hạ giới, đậu xuống giữa lòng Viên Chăng 'xây hồn thơ'. Chất lãng mạn, hào hoa trong cảm hứng hòa cùng giọng thơ mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc khó quên, ngân nga điệu lòng đồng cảm của nhà thơ Quang Dũng.
Trong dòng cảm xúc nghẹn trào thương nhớ về đoàn quân Tây Tiến, niềm vui sum vầy trong đêm liên hoan văn nghệ đã mang lại một giọng điệu hồn nhiên, tươi trẻ; nhưng khi hồi ức về cảnh sông nước miền Tây qua cuộc phân li 'người đi Châu Mộc chiều sương ấy', Quang Dũng lại tạo ra một chất giọng bâng khuâng, man mác nỗi niềm, dù cả hai khổ thơ này đều nằm trong cùng nội dung cảm hứng hoài niệm, một vương vấn của tấc lòng nhớ nhung tha thiết. Sự đa dạng về giọng thơ đã tạo nên sức hút và lôi cuốn người đọc. Vì vậy, việc nhận biết chất giọng chính là cách giải mã nội dung tư tưởng thơ, cảm nhận được tâm trạng và cảm hứng mà nhà thơ hướng đến. Hội ngộ rồi chia xa, giờ đây thực sự xa đoàn quân Tây Tiến, qua kí ức của mình, làm sao tác giả không bất chợt nỗi 'nhớ chơi vơi' về cảnh sông nước miền Tây mênh mông, lay động:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Các câu thơ tiếp tục vu vơ vào nhau trong cách hiệp vần 'ấy - thấy'; cấu trúc trùng lặp của phép lặp cú pháp: 'Có thấy hồn lau...', 'Có thấy dáng người...' càng làm tăng thêm nỗi buồn man mác của một chuyến rời xa. Ôi Châu Mộc! Ôi chiều sương! Ôi dáng người trên độc mộc!... Tất cả trở nên mờ nhạt trong sương khói, càng tìm kiếm, khao khát, nhớ nhung càng trở thành một nỗi buồn của hồn thơ đa cảm.
Tây Tiến, như chúng ta biết, là một bài thơ hoàn hảo, không có câu thơ non tả. Tuy nhiên, đoạn thơ để lại ấn tượng sâu đậm nhất là đoạn miêu tả chân dung người lính Tây Tiến. Từ vẻ bề ngoài đến tâm hồn, khát vọng hy sinh cũng như sự anh dũng hi sinh, tất cả đều thể hiện một vẻ đẹp bi tráng. Ngoài nội dung thơ, giọng điệu nghệ thuật của đoạn thơ này cực kỳ đặc biệt, gợi lên trong lòng người đọc một cảm xúc mạnh mẽ, khó phai mờ trong tâm trí. Chính giọng điệu hùng bi tráng đã thêm sức hút cho bức chân dung người lính Tây Tiến.
'Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm'
Hai câu thơ trên là hai câu thơ khẳng định hình dáng kỳ lạ từ hiện thực gian khổ của cuộc trường chinh cứu nước mà người lính phải đối mặt. Tuy nhiên, cách viết, cách miêu tả chân dung ở đây lại thật khác thường. Chất giọng hùng hồn vang lên đã làm tan biến vẻ xanh xao, yếu đuối. Đặc biệt, qua hình ảnh những nấm mồ 'rải rác biên cương' mà những người lính xa xứ nằm lại đã gợi lên trong trái tim người đọc bao nỗi buồn thương về sự mất mát, hy sinh, là tiếng kêu xót xa, đau lòng. Thông qua cách diễn đạt trang trọng qua giọng điệu và việc sử dụng các từ ngữ Hán Việt đúng lúc đúng chỗ: 'biên cương', 'viễn xứ', 'chiến trường', 'độc hành'... đã nâng cao hình ảnh người lính Tây Tiến lên thành một vẻ đẹp bi tráng, hùng hồn. Cùng với chiếc 'áo bào' tiễn đưa các anh vào lòng đất mẹ, Quang Dũng cũng đã đắp 'nấm mộ ngôn từ' một cách trang trọng nhất, thiêng liêng nhất với tất cả sự tôn kính của mình để tôn vinh hình ảnh người lính Tây Tiến.
Khúc 'độc hành' của dòng sông Mã 'gầm thét' qua núi đồi, lũng sâu lúc các anh nằm lại đã trở thành giọng điệu bi thiết, hùng tráng đầy uất ức mãi mãi chôn vùi. Sông Mã trở thành dòng sông oai linh với tiếng gầm lời nguyền cứu nước, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Lời nguyền ấy truyền bá như lời Hịch cứu nước của Người trong 'Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến'. Vì thế, giọng điệu bi hùng, trang trọng là âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ này, góp phần khắc họa sâu sắc hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng như bài hát 'Đoàn vệ quốc quân' hùng vĩ một thời của Phan Huỳnh Điểu: 'Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi/ Nào có sá chi đâu ngày trở về/ Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết chớ lui'.
Kết thúc bài thơ Tây Tiến là giọng điệu đầy tin yêu, trào dâng trong lời ước hẹn trở về. Bốn câu thơ cuối cùng mở ra một bức tranh rộng lớn của muôn ngàn khát vọng. Dù không có hẹn ước trong cuộc chia ly trên con đường xa vạn dặm, nhưng trái tim của những chàng trai 'chưa trắng nợ anh hùng' vẫn mãi không dứt nỗi nhớ về Tây Tiến. Chính giọng điệu đầy tin yêu, trầm lắng là lời nguyền son sắt và trung thành đậm chất của người lính Tây Tiến anh hùng. Nhờ đó, Tây Tiến trở thành một tác phẩm tuyệt vời về tư tưởng, mang đầy giá trị nghệ thuật, trong đó giọng điệu đóng vai trò không nhỏ.
Ngoài sự đa dạng về giọng điệu, khả năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả đã đưa Tây Tiến vươn lên trở thành một điểm sáng rực rỡ trên bức tranh thơ ca dân tộc. Tây Tiến ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và thơ ca cách mạng Việt Nam vẫn còn trẻ, sống bằng vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ, tác phẩm kết hợp nhiều yếu tố khác nhau thông qua bút pháp, giọng điệu và các yếu tố nghệ thuật khác nên không thể tách rời từng yếu tố để xem xét, đánh giá. Ở đây, chỉ phân tích hai phương diện nghệ thuật tiêu biểu là ngôn ngữ sắc nét như tranh và nhạc tính của bài thơ.
Chúng ta đều biết rằng, một tác phẩm văn học luôn sử dụng ngôn ngữ như một công cụ để truyền đạt tư tưởng, cảm xúc. Vì vậy, ngôn ngữ trở thành yếu tố quan trọng nhất để đánh giá thành công của tác phẩm. Với thơ ca, trong bối cảnh 'ý tại ngôn ngoại' (ý trong ngoài lời), ngôn ngữ lại càng trở nên đặc biệt hơn, trở thành ngôn ngữ nghệ thuật 'cao cấp' mà ở đó mỗi âm, mỗi từ như chuông vàng ngân ngọc, 'đúc thành huân chương', sáng lên lấp lánh khác thường so với ngôn ngữ hàng ngày.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 5
Trong 'Nghĩ về nghề viết', Chế Lan Viên đã nói:
“Tạo hình là loại vũ khí
Vẻ đẹp của từng câu thơ cũng cần tranh đấu vì sự thật”
Vì vậy, khi sáng tác một tác phẩm, tác giả luôn chú ý đến hình thức thơ để làm cho tác phẩm của mình trở nên đẹp và đặc biệt hơn. Hiểu được điều này, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng tài năng của mình để hoàn thiện từng câu chữ trong tác phẩm “Tây Tiến”, để ngôn từ thơ đẹp mắt đóng góp vào thành công của tác phẩm và ghi lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.
Một số người đã so sánh hình thức của một tác phẩm như vẻ đẹp của một cô gái, không phải là yếu tố quyết định nhưng là yếu tố đầu tiên tạo cảm tình, thu hút sự chú ý, làm quen với nhau, tạo nên mối quan hệ bền vững. Hình thức thơ, đặc biệt là ngôn từ thơ mang tính thẩm mỹ, thể hiện tài năng của tác giả, là yếu tố tạo nên phong cách. Với bài thơ “Tây Tiến”, ngôn từ thơ ấn tượng đã tạo ra sức hút cho bài thơ, khiến độc giả muốn ngắm nhìn và thưởng thức, đồng thời làm nổi bật tài năng của nhà thơ. Có thể nói điều nổi bật nhất trong nghệ thuật từ vựng ở đây là cách sử dụng từ dân tộc – một kỹ thuật nghệ thuật phong phú: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ làm tâm trạng dễ buồn
Hai câu thơ là biểu hiện của nỗi nhớ, nhưng nếu nỗi nhớ chỉ được diễn đạt bằng từ “nhớ nhung” thì thật sự là tầm thường và không đủ. Chỉ với từ vựng “làm tâm trạng dễ buồn” với âm vần “buồn” có sự mở rộng lớn khiến nỗi nhớ kéo dài vô hạn. Trạng thái mơ mộng, u hoài của nỗi nhớ kết hợp với cảm xúc sâu nặng trong tâm trí đã tạo ra một nỗi nhớ “dễ buồn” không giống ai trên thế gian. Đó là nỗi nhớ sâu sắc, mơ hồ, tràn ngập không gian và thời gian, khiến tâm hồn của người đọc cũng mơ màng và đắm chìm trong nỗi nhớ. Có thể nói rằng mức độ đó trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã gặp gỡ với nỗi tương tư của Xuân Diệu: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Nỗi tương tư dâng cao lòng buông lơi
(Tương tư chiều)
Như vậy, chỉ với từ vựng “buông lơi”, nỗi nhớ của Quang Dũng đã phản ánh lên một cung bậc đặc biệt, không giống với nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, cũng không giống với nỗi nhớ đậm sâu của Tố Hữu trong “Việt Bắc”. Đó là một nỗi nhớ vừa mơ hồ, vừa sâu lắng, bao trùm cả núi rừng Việt Bắc, vượt qua những đám mây mù ở Pha Luông, đọng lại trong tâm trí của những người lính.
Nỗi nhớ ấy gợi lên cho người chiến sĩ kí ức về những kỷ niệm khó khăn khi hành quân: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
'Đàn heo chạy trên đỉnh núi mây bốc”
Từ vựng “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã khắc sâu hơn con đường gập ghềnh, hiểm trở của cuộc hành quân. Những từ ngữ này khiến giọng thơ trở nên cảm xúc, rõ ràng, phản ánh sự hùng vĩ của thiên nhiên cũng như sự khắc nghiệt của địa hình Tây Bắc. Nhờ chúng, nỗi khó khăn, gian khổ của người lính được diễn đạt một cách sâu sắc, làm nổi bật ý chí chiến đấu anh hùng của họ. Không gian núi rừng miền Tây được mô tả thông qua từ vựng “đàn heo”, tạo ra một bầu không khí xa xôi, hoang sơ, lạnh lẽo. Mây không còn là biểu tượng của sự mơ mộng mà càng làm cho không gian trở nên u ám, hẻo lánh của vùng đất xa xôi. Chỉ với vài từ vựng giàu cảm xúc, Quang Dũng đã mô tả không gian thiên nhiên của núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ vừa đầy thử thách. Những từ ngữ này là một thách thức tinh thần cho những người lính trẻ trong cuộc hành trình vạn dặm. Tuy nhiên, dù thiên nhiên có khắc nghiệt thế nào, nó vẫn biết cách tạo nên vẻ đẹp thơ mộng ở nơi núi rừng sâu thẳm: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Phải là “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” – vì “đung đưa” chỉ làm cho hình ảnh còn “đong đưa” làm cho cảm xúc. Những bông hoa rừng như múa cùng gió, tạo nên một bức tranh duyên dáng cùng với dòng nước, hay chính là biểu hiện của tình cảm, đa tình của những người trẻ? Từ vựng giàu cảm xúc này khiến cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính trở nên sống động: cuộc hành trình hành quân không chỉ là về những khó khăn, mà còn là về sự đa dạng và phong phú của tình yêu, sự đẹp đẽ của tuổi trẻ, và là ca khúc ca ngợi của những người lính trong quá khứ.
Ngôn từ thơ của Quang Dũng không chỉ đậm chất tạo hình, không chỉ gợi lên cảm xúc mà còn là sự sáng tạo độc đáo của riêng tác giả. Điều đó được thể hiện khi chúng ta nhận ra trong bài thơ xuất hiện những cụm từ rất mới lạ: “súng ngửi trời” – một góc nhìn rất lính, rất lạc quan mà chúng ta đã từng thấy trong thơ Hồng Nguyên: “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau”. Bằng cảm nhận đặc biệt của một người trẻ, những người lính cảm thấy như đầu súng của họ chạm đến bầu trời cao, họ như đang đứng trên đỉnh của tổ quốc để bảo vệ và giữ gìn đất nước. Ngay cả khi đề cập đến sự hy sinh, Quang Dũng cũng sử dụng những cụm từ mới lạ: “không mọc tóc”, “bỏ quên đời”, “quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Nét đẹp trong tâm hồn của những người lính trẻ không chỉ là vẻ hào hoa phong trần của những chàng trai mới lớn, đó còn là sự dũng cảm và kiêu hãnh của một người lính cụ Hồ không ngại gian khổ, không sợ hy sinh để bảo vệ đất nước. Cách diễn đạt độc đáo đã biến họ thành những anh hùng, những dũng sĩ trong thời chiến, sánh ngang với những tượng sử trong sử thi cổ truyền, để họ viết nên một trang sử anh hùng.
Để làm cho sự hy sinh của những người lính trở nên trang trọng, nhà thơ đã sử dụng rất tinh tế các từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào”:“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
'Chiến trường đi không hối tiếc cuộc đời xanh
Áo bào thay chiếu về anh với đất
Sông Mã vang lên khúc hành quân độc mộng”
Cách sử dụng từ Hán Việt trong đoạn thơ không làm cho đoạn thơ trở nên khó hiểu mà ngược lại, làm tăng thêm không khí trang trọng, vẻ đẹp thiêng liêng, giọng trầm hùng bi tráng cho sự hy sinh của người lính, biến những mộ vô danh thành mộ chí vĩnh cửu. Cách diễn đạt lôi cuốn đó đã biến sự hy sinh trở thành một bài ca tráng lệ, tạo ra sau lưng những người lính là những chiến tướng “Ra đi không quay về”, không hẹn ngày trở lại. Họ là những con người xuất sắc nhất của thế kỷ XX, là những người đã viết nên lịch sử cho một thời đại anh hùng.
Như vậy, thành công của thơ không chỉ phụ thuộc vào cảm xúc mà còn vào khả năng biểu đạt ngôn ngữ. Với cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo và rất đặc sắc, nhà thơ Quang Dũng đã mang tính nghệ thuật vào từng câu chữ, biến bài thơ thành một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đằng sau những dòng thơ đó là tài năng nghệ thuật của nhà thơ cũng như sự cống hiến trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Tóm lại, thơ hay phải là thơ giàu cảm xúc, nhưng để biểu đạt cảm xúc thì cần phải có ngôn ngữ thơ đặc sắc. Quang Dũng đã hoàn thành trách nhiệm của thơ ca, tạo ra một bài thơ tráng lệ về binh đoàn Tây Tiến.
Dù chiến tranh đã rời xa, nhưng dấu vết của nó vẫn còn hiện hữu trong những bài thơ đặc sắc. Với sự sáng tạo trong ngôn từ, nhà thơ Quang Dũng đã ghi lại dấu ấn của thời gian, để lại trong lòng người một trái tim thơ ca bất diệt, tạo nên một bài hát anh hùng cho một thời đại anh hùng.
Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ trong bài Tây Tiến - Mẫu 6
Giả Đảo thời Đường từng viết:
“Hai năm tương đương với ba lần
Một bài thơ, một lượt lệ chảy”
(Hai câu thơ mất đi ba năm
Một bài thơ, một dòng lệ)
Viết những câu thơ đẹp và ý nghĩa chưa bao giờ là điều đơn giản với một nhà thơ, và khiến người đọc đắm chìm trong đó càng khó khăn hơn. Nhưng vẫn có những bài thơ tuyệt vời có thể khiến người ta mãi mãi “đắm chìm” và xao xuyến. Với vẻ đẹp của ngôn ngữ, “Tây Tiến” là một ví dụ điển hình cho điều đó.
Người ta thường nói: Thơ ca sinh ra từ trái tim nhưng nở hoa từ ngôn ngữ. “Ngôn ngữ là yếu tố hàng đầu của văn học” (M.Gorki) để người đọc có thể hiểu và cảm nhận cùng tác phẩm. Vì vậy, việc sáng tạo ngôn từ để tạo ra một tác phẩm hay chưa bao giờ dễ dàng. “Nhà thơ là kỹ sư của từ ngữ” (Lê Đạt) yêu cầu phải học hỏi ngôn ngữ của “người trồng dâu, trồng khoai”, phải cố gắng lọc và “chế tạo” ra ngôn từ của riêng mình. Những từ ngữ đó làm cho tác phẩm trở nên đẹp và cuốn hút người đọc, cũng như là cách để nhà thơ thể hiện tài năng của mình. Vẻ đẹp ngôn ngữ của “Tây Tiến” đã thực hiện những điều đó.
Với Quang Dũng, “Tây Tiến” không chỉ là nơi kỷ niệm mà còn là nơi đau thương. Được sáng tác khi tác giả trở về làng Phù Lưu Chanh, “Tây Tiến” là biểu tượng của kỷ niệm, là những kỷ niệm với đồng đội chiến sĩ trong rừng Tây, đựng đầy tình cảm của tác giả với những ngày tháng dài chiến đấu. Do đó, bài thơ viết vào năm 1947 là kết quả của sự nhớ nhà, chứa đầy cảm xúc của nhà thơ chiến sĩ, là lời ca ngợi vẻ đẹp hào hùng và thanh lịch của người lính, và cái lãng mạn của những chàng trai trẻ mới ra khỏi giảng đường đã sẵn sàng chiến đấu. Với hình tượng chân thành đó, ngôn ngữ của bài thơ cũng đầy hào hùng, độc đáo và thanh lịch, cổ điển.
“Tây Tiến” là một bài thơ thuộc văn học thời kỳ kháng chiến – của những “vần thơ nhuốm lửa” vì vậy ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của sự hào hùng, tiếng động của sự hùng tráng và mang đậm cảm hứng sử thi. Nhưng, ngay cả trong nét sử thi ấy cũng là sự hào hùng, hùng tráng rất độc đáo. Hãy nghe khúc hành trình đầy mạnh mẽ của thiên nhiên ở rừng Tây Tiến:“Buổi chiều oai vệ linh thác reo gọi
'Đêm đêm Mường Hịch tiếng cọp vẫn vui đùa”.
“Dòng thác rền vang, con cọp vui đùa với con người” là những hình ảnh gợi lên sự hoang sơ, dữ dội và bí ẩn của núi rừng Tây Bắc. “Buổi chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ biểu hiện thời gian lặp đi lặp lại vô tận, tạo ra một không gian u buồn. Sức mạnh của thiên nhiên tại đây không chỉ đơn giản là “buổi chiều” hay “đêm đêm” mà còn là sự hiện diện liên tục, vô tận.
Đối diện với hàng ngàn khó khăn, những câu thơ vẫn kiên cường và mạnh mẽ, mang đậm bản sắc quân đội:“Lính Tây Tiến không có thời gian để chờ đợi
'Quân lính mặc áo màu lá cây dữ dội
Mắt nhìn xa xa, trao gửi những ước mơ vượt biên…”
Hai câu thơ đầu tiên của Quang Dũng phản ánh một cách trực tiếp bằng “ngôn ngữ của lính”, tạo nên sự bất ngờ và hiện thực. Câu thơ không chỉ nói về sự “không có thời gian để chờ đợi” và vẻ ngoài “màu lá cây” là kết quả của bệnh sốt rét. Những câu thơ của Quang Dũng không chỉ thể hiện sự rắn rỏi và mạnh mẽ, mà còn mang trong đó một chút lãng mạn. Từ “không có thời gian để chờ đợi” làm cho câu thơ trở nên kiên cường và mạnh mẽ; cấu trúc câu thơ không tuân theo quy tắc, mạnh mẽ; con người hiện lên với tinh thần tự chủ, tư duy mạnh mẽ. Sự ẩn dụ kết hợp với việc phóng đại “dữ dội” làm cho chủ thể trở nên uy nghi, mạnh mẽ như vị vua trong rừng, cho dù gặp khó khăn nhưng không bao giờ chùn bước – hình ảnh của những chiến binh hùng hậu.
Đặc biệt là giọng thơ trầm lắng, bi thương nhưng không sa sút để tạo nên vẻ trầm trồ:“Dọc theo biên cương, những mộ xa xôi với đất đỏ”
'Trận chiến không tiếc mạng sống trẻ trung
Quân lính thay nhau bước lên chiến trường
Dòng sông Mã vang lên bài ca mạnh mẽ”
Sử dụng các từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” để tạo nên một không khí trang trọng, câu thơ trầm lắng, bi thương. Một cách tự tin: “không tiếc mạng sống trẻ trung” khẳng định tinh thần gan dạ của những người lính sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng. Hình ảnh “áo bào” gợi nhớ đến hình ảnh của những anh hùng trên bờ sông Dịch: “Kinh Kha không một ai quay về hòa bình” cùng với cách diễn đạt giản dị làm cho những người lính trở nên cao đẹp. Cái chết không phải là điều gì đáng sợ với họ, chỉ là một sự trở về sau khi họ đã sống và chiến đấu hết mình với tư cách là những con người tự do, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, thường thấy rằng đó là biểu hiện tiêu cực của “mộng buồn”, “buồn rầu” hoặc “tư duy hùng hồn”. Nhưng thực tế, khẩu khí của nhà thơ và của những người lính Tây Tiến đó là cực kỳ quý trọng. Nó thể hiện quyết tâm của những con người yêu dân tộc, sẵn sàng hy sinh cho các lý tưởng cao cả. Họ không phải là những nạn nhân vô danh trên bàn cờ chiến trận mà là những “chủ thể ý thức lịch sử”, biết cách sống mỗi giây phút, biết ước mơ, hi vọng và sẵn sàng hy sinh. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự đáng kính trọng với những người lính đã hi sinh cho một lý tưởng cao cả. Sự ra đi của họ lại được tôn vinh như một bài hát “mạnh mẽ” của dòng sông Mã, đầy uy nghi và trang trọng. Tầm vóc của con người đã vươn lên cao tựa với vũ trụ.
Bên cạnh vẻ đẹp trầm lắng, hùng tráng của “Tây Tiến”, những câu thơ còn nổi bật với tài hoa và vẻ đẹp lãng mạn, cổ điển. Tâm hồn thơ của Quang Dũng sống trong không gian hiện đại nhưng vẫn tiếp nhận được sự truyền thống cổ điển. Câu thơ của ông mang đậm phong cách tài hoa riêng biệt. Hãy nghe những dòng thơ:
“Nhớ về rừng núi, nhớ chân trời xa vời”
Thơ về nỗi nhớ từ xa xưa đến nay không dễ dàng để diễn tả. Nhưng ít có bài thơ nào mà nỗi nhớ lại được biểu đạt bằng cách sử dụng từ ngữ lạ và ám ảnh như vậy! Ai đọc “Tây Tiến” cũng khó quên được từ “nhớ chân trời xa vời”. “Chân trời xa vời” có thể là tâm trạng của người nhớ hay của cảnh vật được nhớ? Đó là cái nỗi buồn lẻ loi của kẻ phải xa cách nơi mình đã quen thuộc hay là cái đẹp u buồn của núi rừng Tây? Khó mà phân biệt! Cả hai chủ thể và đối tượng dường như đã kết hợp vào nhau và hiện diện trong một từ “xa vời” đó. Đó có phải là trạng thái nỗi nhớ đặc biệt?“Nhớ về Tây Tiến, cảnh khói nghi ngút
'Em hương nếp xôi mùa Mai Châu'
Cụm từ “Nhớ ôi” vừa mới nghe đã đầy xúc động và nghẹn ngào! Không phải là “ôi nhớ” như cách cảm thán cũ mòn; cũng không phải là “nhớ ôi là nhớ” thẳng thắn, trực tiếp, hay “nhớ ôi” như một lời gọi hướng về người khác mà là “nhớ ôi” như một tiếng gọi hướng về bản thân. Ta cảm nhận rõ trong lời thơ một nỗi nhớ đong đầy bất ngờ bất chợt tràn lên. Người nhớ không thể kìm nén lòng đã trào ra thành tiếng than khóc nhưng “buột miệng ra mà dư vang súc tích”. Lê Đạt từng nói: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sống của ngôn ngữ”. Quang Dũng là một trong những người như vậy. Ông đã sáng tạo ra một ý nghĩa táo bạo nhưng vô cùng đa tình trong cụm từ mới mẻ: “mùa em”. “Mùa em” không chỉ khiến Mai Châu trở nên đặc biệt với những kỷ niệm thơm ngát của xôi nếp đầu mùa, của tình yêu dân tộc sâu sắc mà còn gợi nhớ hình ảnh của những cô gái dịu dàng của vùng miền núi. Rồi sau này, dù Tây Tiến có mờ dần vào dòng lịch sử nhưng tiếng gọi ấy vẫn sẽ còn lưu lại trong lòng người đọc mãi sau những biến động của thời gian.
Nếu nói: “Phần chìm dưới câu chữ thường lại chứa đựng những giá trị cao quý như kim cương của nghệ thuật” (Nguyễn Thanh Hùng) thì đó chính là bài thơ của Quang Dũng làm minh chứng: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”
'Trong chiều sương buông bên bờ sông
Trên bãi cát mịn dáng người hiện lên
Nước lũ hoa trôi bồng bềnh”
Chỉ một từ “chiều sương” đã đủ để gợi lên cảm giác về thời gian và không gian. Trong văn thơ cổ, mỗi khi nhắc đến chiều, đến sương là một nỗi buồn cổ điển, là nỗi nhớ thiên niên kỳ gợi lên: “Dưới dải sương đèn cuối dòng sông” (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại mang đến một cảm giác rất nhẹ nhàng, yên bình. Một từ “ấy” vô danh nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Từ “ấy” vô danh vì nó gợi lên một thời gian nào đó, đôi khi cả người nói cũng không thể xác định được: là “Buổi ấy trái tim tôi nghe lòng bạn” (Xuân Diệu), là “Từ ấy”, “Mười lăm năm ấy” trong ký ức của Tố Hữu. Nhưng đó cũng là những ngày không thể lẫn vào đâu trong hàng triệu buổi chiều khác trong cuộc đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ cần một ít minh chứng nhưng nhận lại rất nhiều ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “vận mệnh lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài viết: “Vận mệnh bên lề” mà là “hồn lau”. Cái “hồn” cổ điển mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” khiến cho câu thơ không chỉ mô tả mà còn gợi cảm xúc. Không thấy được hình dạng của ngọn lau nhưng có thể cảm nhận được tinh thần riêng của vùng núi Tây Bắc. Cảnh vật theo lời thơ tan ra. Một chút minh chứng mất đi nhưng lại đưa đến nhiều giấc mơ. Câu thơ cuối cùng mang lại hình ảnh dịu dàng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh thiên nhiên mơ mộng, yên bình. Hình ảnh “hoa” không chỉ gợi nhớ về cảnh quan đẹp của vùng núi Tây Bắc mà còn là hình ảnh của vẻ đẹp. “Hoa trôi bồng bềnh” đang tạo nên một bức tranh tinh tế, mê hoặc với gió, với dòng nước khi nở toàn bộ sắc hoa để tự do mình? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp, về người con gái đang âu yếm một cách nhẹ nhàng và tinh tế. Câu thơ có cảm giác của cảnh vật, sự duyên dáng của người và có lẽ còn là đôi mắt dịu dàng của người nhìn cảnh nữa?
Tuy nét đặc biệt nhất, độc đáo nhất của Tây Tiến là sự hùng vĩ, hào hoa, cái phần đời rất quân nhân và hương vị lãng mạn cổ điển không bao giờ chia lìa mà hoà quyện vào nhau trong những dòng thơ, đoạn thơ tạo nên một bài thơ xuất sắc. Đọc thơ Quang Dũng giống như thưởng nghệ thuật, thưởng âm nhạc:“Bước lên dốc, lối dốc sâu thăm thẳm
'Heo hút mây phủ, súng gửi hương lên trời
Thành ngàn thước cao, ngàn thước thấp
Nhà Pha Luông nào, mưa xa khơi”
Câu thơ “Bước lên dốc, lối dốc sâu thăm thẳm” chỉ có 7 từ nhưng có đến 5 từ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ như “bước lên, thăm thẳm” đã mô tả hình ảnh con đường quân sự với những con dốc vòng vèo, leo lên cao mãi. Từ “heo hút” gợi lên cảm giác về sự xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải là người chép lại cuộc sống vào trong thơ mà mỗi từ đều là sự sôi động “đào mỏ tìm vàng” (Maiacopxki), để “lượm lặt” trên con đường cuộc sống, ấp ủ và trồng thành những bông hoa thơ đẹp tuyệt vời. Những từ lấp lánh ấy không chỉ làm người ta bất ngờ mà còn gây hứng thú: “mây phủ”. Không phải là áng mây bay nhảy hoặc đám mây trôi dạt mà lại là “mây phủ” mờ mịt nơi chốn xa xôi: “đất mây dày dạn ở xa cửa ải” (Đỗ Phủ). Hình ảnh “súng gửi hương lên trời” mới lạ và thú vị như thế nào. Ở câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột, vẽ ra hai phần của con đường quân sự. Sự đối lập giữa “ngàn thước” và “lên cao - xuống” đã diễn tả sâu sắc sự đặc biệt của vực sâu nước sông, hiểm trở. Đọc thơ Quang Dũng không chỉ như việc ngửi mùi hương trong miệng mà còn như được ngắm tranh. “Trong thơ có họa, trong thơ có nhạc” là vậy. Nếu câu thơ trên đầy khó khăn thì câu thơ dưới lại nhẹ nhàng hơn, câu thơ trên gặp khó khăn thế nào thì dưới lại êm đềm hơn, khung cảnh trên đầy khắc nghiệt thì khung cảnh hiện tại lại dịu dàng hơn: “Nhà Pha Luông ở đâu, mưa xa khơi”. Tâm trạng thảnh thơi được thể hiện qua những âm vận suốt câu thơ đó.
Hoặc hai câu thơ về hình ảnh người lính:“Ánh mắt trừng gửi mộng qua biên giới
'Đêm mơ Hà Nội hình bóng diệu kỳ”
Câu thơ trước nặng nề bấy nhiêu, hai câu thơ dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu! Nếu tác giả thay “mắt trừng” bằng “bâng khuâng” thì câu thơ dưới sẽ mất đi tính tinh lọc và quý hiếm của nó. Câu thơ mang “mộng” của người anh hùng với lửa căm thù và khát khao lập công nhưng vẫn giữ chút “mơ” của giai nhân. Tác giả không dùng từ “nhớ” như nhiều người khác mà chọn “mơ” để thể hiện sự mơ hồ của tâm hồn. “Dáng kiều thơm” chính là vầng sáng trong kí ức, tố cáo đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính.
Thơ đơn giản nhưng hiệu quả được nâng lên khi Quang Dũng sử dụng “Cổ phong trường thiên” để thể hiện tình cảm mà không bị bó buộc. Hình ảnh quen thuộc lại trở nên mới mẻ, hấp dẫn khi được sắp xếp bởi Quang Dũng. Thơ của Quang Dũng như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ. Phong cách kết hợp hiện thực và lãng mạn tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, bi tráng. Tài năng của Quang Dũng kết hợp với chân tâm đã tạo nên “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ và lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh cho đất nước.
Quang Dũng đã góp phần vào văn học bằng những hình tượng và ngôn ngữ tuyệt đẹp. Nhà văn không tồn tại để tự làm rõ mình rồi lại tự xóa mình đi, mà để trở thành bất tử trong tâm hồn của mọi thế hệ.