Văn học dân gian Thần thoại |
Văn học viết
Văn học đời Lý Văn học đời Trần Văn học đời Lê Sơ Văn học đời Mạc Văn học đời Lê trung hưng Văn học đời Tây Sơn Văn học thời Nguyễn Văn học thời Pháp thuộc Văn học thời kỳ 1945–1954 Văn học thời kỳ 1954–1975 Văn học thời kỳ sau 1975 |
Khác Thơ Việt Nam |
Tục ngữ Việt Nam là những câu nói ngắn gọn, truyền tải kinh nghiệm sống của người Việt qua thời gian về thiên nhiên, lao động, con người và xã hội. Được ví như 'trí khôn dân gian', tục ngữ mang đến trí tuệ phong phú qua ngôn từ súc tích, dễ nhớ và đầy hình ảnh. Nó là thể loại văn học nói dân gian, thường được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày và khuyên răn.
Tục ngữ được hình thành từ kinh nghiệm sống thực tiễn, từ lao động và đấu tranh của nhân dân, hoặc từ các tác phẩm văn học dân gian. Nó có thể được tách ra từ tác phẩm văn học hoặc được dân gian hóa từ những câu nói hay hoặc vay mượn từ các nền văn hóa khác.
Tục ngữ thường bao gồm hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng, gắn bó chặt chẽ với hình thức và nội dung. Chúng khái quát hóa những quan sát cụ thể thành phương châm và chân lý, với hình tượng xây dựng từ so sánh, nhân hóa, và ẩn dụ.
Phần lớn tục ngữ có vần, chia thành vần liền và vần cách. Các kiểu ngắt nhịp: dựa trên yếu tố vần, vế, đối ý, hoặc cấu trúc thơ ca. Sự hòa đối tạo nên sự cân bằng và nhịp điệu cho tục ngữ, với các hình thức đối như đối thanh và đối ý. Tục ngữ có thể chỉ chứa một vế hoặc nhiều vế với nhiều phán đoán.
Các phương pháp suy luận bao gồm: liên hệ tương đồng, không tương đồng, tương phản, đối lập, phụ thuộc và nhân quả.
Lịch sử ghi chép tục ngữ bằng chữ Nôm vào thế kỷ 19 bao gồm các tác phẩm như Nam phong ngữ ngạn thi (南風語諺詩) của Đình Thái và Đại Nam Quốc Túy (大南國粹) của Ngô Giáp Đậu.
Tục ngữ ghi bằng chữ quốc ngữ bao gồm Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897) và Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920).
Một số bản sưu tập và dịch nghĩa tục ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp bao gồm Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa) và Đông Tây ngạn ngữ cách ngôn của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931).
Các bản sưu tập khác như Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa của Minh Hiệu (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà Nội do Triều Dương (1971), Tục ngữ Thái (1978), Tục ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956) và Tục ngữ Việt Nam của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Chi (1975).
Nguồn gốc từ ngữ
Chữ Nôm: 俗語越南.