Trong giáo trình Ngữ văn các cấp học, thơ Việt rất đa dạng và phong phú, được sử dụng để dạy học một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Vậy thơ là gì, quy tắc gieo vần và sáng tác thơ như thế nào? Mời bạn theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu chi tiết.
Thơ ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau như: Thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ tự do, thơ thất ngôn bát cú đường luật, thất ngôn tứ tuyệt đường luật... Thơ là một cách để phân loại và mỗi loại đều có đặc điểm riêng, chỉ cần áp dụng đúng quy tắc và kết hợp cảm xúc và sự sáng tạo, bạn có thể tạo ra những bài thơ ý nghĩa.
Các dạng thơ phổ biến ở Việt Nam
- 1. Thơ lục bát 2. Thơ song thất lục bát 3. Thơ đường luật 4. Thơ bốn chữ 5. Thơ năm chữ 6. Thơ sáu chữ 7. Thơ bảy chữ 8. Thơ tám chữ 9. Thơ tự do 10. Thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật 11. Thơ thất ngôn bát cú đường luật
1. Thể thơ lục bát
Là một trong những loại thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Thể thơ này nổi tiếng với cấu trúc gồm một câu 6 chữ và một câu 8 chữ, xen kẽ nhau. Thường thì câu 6 mở đầu và câu 8 kết thúc bài thơ. Số câu trong một bài thơ lục bát có thể linh hoạt. Thể thơ này thường xuất hiện trong các bài hát dân ca, ca dao và cũng thường được sử dụng trong thơ ru mẹ.
Quy tắc
Quy tắc viết thể thơ lục bát như sau:
- 1. Các câu thứ nhất, ba và năm: Tự do về thanh điệu. 2. Các câu thứ hai, bốn và sáu: Tuân theo cấu trúc B – T – B cho câu lục và B – T – B – B cho câu bát.
Cách gieo vần
Cách gieo vần trong thể thơ lục bát rất linh hoạt. Có thể gieo vần bằng cách sử dụng tiếng cuối của câu lục và tiếng này sẽ hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế tiếp. Tiếp tục như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.
Ví dụ:
“Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
2. Thể thơ song thất lục bát
Thể thơ song thất lục bát là một loại thơ truyền thống được dân tộc Việt Nam tạo ra. Trong thể thơ này, cấu trúc bao gồm hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Số lượng câu trong một bài thơ không bị giới hạn.
Quy tắc
Thể thơ song thất lục bát tuân theo quy tắc bằng – trắc như sau:
- 1. Câu 7 chữ ở trên: chữ thứ 3, 5 và 7 theo quy tắc T – B – T. 2. Câu 7 chữ ở dưới: ngược lại so với quy tắc trên, chữ thứ 3, 5 và 7 tuân theo quy tắc B – T – B.
Cách gieo vần
Tiếng cuối của câu bảy chữ ở trên sẽ hiệp với tiếng thứ 5 của câu bảy chữ ở dưới. Tiếp đó, tiếng cuối của câu bảy chữ ở dưới sẽ hiệp với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục lại hiệp với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếp tục như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.
Ví dụ:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
(Chinh Phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)
Cách nhận biết thể thơ
Cách nhận biết thể thơ này dựa vào số lượng chữ trong từng câu thơ của mỗi phần thơ. Mỗi phần thơ có cấu trúc hai câu 7 chữ kết hợp với một cặp lục – bát. Số lượng câu trong một bài thơ không bị giới hạn.
Cách gieo vần
Cách gieo vần của thể thơ song thất lục bát như sau: Tiếng cuối của câu 7 chữ ở trên sẽ hiệp vần với tiếng thứ 5 của câu 7 chữ ở dưới. Tiếng cuối của câu 7 chữ ở dưới sẽ tiếp tục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu lục. Tiếng cuối của câu lục sẽ hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu bát. Tiếp tục gieo vần cho đến khi kết thúc bài thơ.
Các tác phẩm văn học
“Có hoa nào qua mùa không héo? Có tiếng nào giàu đẹp hơn không? Mắt em là một dòng sông Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.”
(Đôi mắt – Lưu Trọng Lư)
“Em nhớ mãi chiều thu lá đổ Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn Chạnh lòng anh vọng lời thương Xa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non.”
(Thuyền neo bến đậu – Hoàng Mai)
3. Thể thơ đường luật
Thể thơ đường luật
Tính chất cổ xưa của thể thơ này xuất phát từ Trung Quốc và sau khi được nhập vào Việt Nam, đã được bảo tồn và phát triển thêm bởi thế hệ ông bà chúng ta, kết hợp với nét đẹp riêng của văn hóa dân tộc.
Quy tắc
Quy tắc của thể thơ này rất nghiêm ngặt và không được phép phá vỡ. Số lượng chữ trong mỗi câu và số câu trong bài thơ sẽ xác định quy tắc của nó:
Ví dụ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng”
(Chiều tối – Hồ Chí Minh)
- Thể thất ngôn bát cú đường luật (gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ): Cấu trúc bài thơ gồm 2 câu mở đề, 2 câu thực, 2 câu luận và 2 câu kết.
Ví dụ:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại, trời non nước Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
- Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (gồm 4 câu, mỗi câu 5 chữ): Cấu trúc bài thơ bao gồm 4 câu, mỗi câu có 5 chữ.
Ví dụ:
“Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử giang san.”
(Phò giá về kinh – Trần Quang Khải)
4. Thể thơ bốn chữ
Thể thơ này có mỗi câu thơ chứa 4 chữ và không có giới hạn về số lượng câu trong bài thơ.
Trong số các loại thể thơ ở Việt Nam, thể thơ bốn chữ được xem là một trong những thể thơ đơn giản nhất. Quy luật sử dụng thể thơ này tuân theo quy luật bằng – trắc như các thể thơ khác: Chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu thơ có sự luân phiên giữa T – B hoặc B – T.
Quy luật
Quy luật bằng – trắc trong thể thơ này là: chữ thứ 2 và chữ thứ 4 có sự luân phiên giữa T – B hoặc B – T
Cách gieo vần
Thể thơ bốn chữ cho phép gieo vần linh hoạt, có thể vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, vần lưng...
Ví dụ:
“Mùa xuân đi rồi Nhiều hoa vắng mặt Như chị hoa đào Ra đi trước nhất”
(Tế Hanh – Hoa cỏ)
Thể thơ bốn chữ cho phép gieo vần linh hoạt. Tùy thuộc vào ý định và mục đích của người viết, có thể gieo vần chéo, vần bằng, vần liền, vần chân, hoặc vần lưng... Điều này tạo ra điểm nhấn về nhịp điệu trong từng câu thơ.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ bốn chữ là:
“Mùa xuân đi rồi Nhiều hoa vắng mặt Như chị hoa đào Ra đi trước nhất”
(Hoa cỏ – Tế Hanh)
“Em bước vào đây Gió hôm nay lạnh Chị đốt than lên Để em ngồi cạnh.”
(Chị em – Lưu Trọng Lư)
“Chú bé loắt choắt, Cái xắc xinh xinh, Cái chân thoăn thoắt, Cái đầu nghênh nghênh, Ca-lô đội lệch, Mồm huýt sáo vang, Như con chim chích, Nhảy trên đường vàng…”
(Lượm – Tố Hữu)
Thể thơ năm chữ là thể thơ mỗi câu có 5 chữ, không có giới hạn về số câu trong bài thơ. Quy luật bằng trắc và cách gieo vần giống với thể thơ 4 chữ ở trên.
Là thể thơ mỗi câu gồm 5 chữ, không giới hạn số câu trong bài thơ. Quy luật bằng trắc và cách gieo vần tương tự như thể thơ 4 chữ ở trên.
Ví dụ:
“Trên con đường xa xôi
Dừng bước bên xóm nhỏ
Tiếng gà reo vang rộn:
“Cục… cục cục cục ta”
Nghe nắng trưa nóng bức
Nghe chân bước mỏi mệt
Nghe tiếng gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa – Xuân Quỳnh)
Thể thơ sáu chữ là thể thơ mà mỗi câu thơ đều gồm 6 chữ. Có thể gieo vần ôm hoặc vần chéo.
Là thể thơ mà tất cả các câu thơ trong bài đều có 6 chữ. Có thể gieo vần ôm hoặc vần chéo.
Ví dụ:
“Quê hương là những khóm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi buổi sáng
Quê hương là con đường đi học
Con trở về với bướm vàng bay”
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Thể thơ bảy chữ là thể thơ mà mỗi câu đều gồm 7 chữ, trong bài không bị hạn chế về số lượng câu.
Là thể thơ mà mỗi câu đều có 7 chữ, trong bài không bị giới hạn về số lượng câu.
Ví dụ:
Sóng nước dòng sông reo điệp điệp,
Thuyền buồn bến lại, nước vẫn trôi.
Bến thuyền dòng nước, buồn muôn phương;
Cành cây lạc phải, dòng nước mênh mông
(Tràng giang – Huy Cận)
Thể thơ tám chữ là thể thơ có các câu gồm 8 chữ, bài thơ không giới hạn về số lượng câu.
Là thể thơ mà mỗi câu đều có 8 chữ, trong bài không có hạn chế về số lượng câu.
Quy luật về bằng trắc: Tiếng cuối và tiếng thứ 3 có vần trắc, thì tiếng thứ 5 và tiếng thứ 6 là vần bằng và ngược lại.
Cách gieo vần: vần ôm, vần chéo và vần tiếp theo
Ví dụ:
Mặt trời mọc! Sáng rõ rồi mẹ ơi!
Con đi bộ đội, mẹ ở nhà
Giặc Pháp, Mỹ còn ác, cướp đất Việt Nam
Đuổi chúng đi, con về bên mẹ
(Nguyễn Khoa Điềm – Khúc ru những đứa trẻ lớn trên lưng mẹ)
Thể thơ tự do
Là dạng thơ hiện đại, thể hiện sự cá nhân và sự sáng tạo của người viết. Trong thể thơ này, không có hạn chế về số từ trong câu, số câu trong mỗi dòng và số dòng trong mỗi bài thơ. Các quy tắc về vần và âm điệu cũng được tự do phát triển, phụ thuộc vào cảm xúc và ý niệm của người sáng tác.
Ví dụ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là một dạng thơ đã xuất hiện vào thế kỉ XII ở Trung Quốc, sau đó được mang vào Việt Nam. Trong thể thơ này, mỗi bài thơ có 4 câu, mỗi câu đều gồm 7 chữ. Cấu trúc của bài thơ tuân theo quy luật sắp xếp các câu thơ theo thứ tự: Khai, thừa, chuyển, hợp. Quy luật của bài thơ được xác định bởi tiếng thứ 2 của câu thứ nhất. Ví dụ: Nếu tiếng thứ 2 của câu thứ nhất có thanh bằng, thì quy luật của toàn bài là quy luật B.
Cách nhận biết thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật là dựa vào số từ trong mỗi câu và số câu trong bài thơ, cùng với việc quan sát quy luật sử dụng của toàn bài thơ.
Đây là một trong những dạng thể thơ Đường luật có quy định cụ thể và chi tiết về cách gieo vần. Thể thơ này có thể sử dụng một vần duy nhất (vần độc) cho toàn bài hoặc kết hợp nhiều vần (vần liên). Gieo vần trong thể thơ này thường xen kẽ giữa thanh bằng và thanh trắc. Về quy luật vần và niêm như sau:
Về niêm: Các câu theo hàng dọc phải niêm với nhau (cùng về thanh)
Về cách gieo vần: Các câu 1, 2, 4 hoặc câu 2 và 4 trong bài sẽ hiệp vần với nhau ở chữ cuối
Một số tác phẩm văn học nổi tiếng sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật bao gồm:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Nam quốc sơn hà – Lý Thường Kiệt)
“Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu
Đôi mình cách trở bởi vì đâu
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu.”
(Hoàng Thứ Lang)
11. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
Thất ngôn bát cú Đường luật là một dạng thể thơ có 8 câu, mỗi câu chỉ chứa 7 chữ. Thể thơ này đã xuất hiện từ rất sớm tại Trung Quốc, nhưng chỉ được đặt tên và quy định rõ ràng trong thời nhà Đường. Đây cũng là thể thơ được sử dụng để lựa chọn tài năng dưới các triều đại phong kiến.
Về quy luật sử dụng, thể thơ này tuân theo quy tắc bằng – trắc nhất định: “Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh”, và xen kẽ nhau. Nếu tiếng thứ 2 trong câu là thanh bằng, thì tiếng thứ 4 sẽ là thanh trắc, tiếng thứ 6 lại là thanh bằng, và tiếp tục xen kẽ như vậy trong các câu tiếp theo. Cấu trúc của một bài thơ bao gồm: Đề, Thực, Luận, Kết.
Cách nhận biết thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật là dựa vào số lượng chữ trong mỗi câu, số lượng câu trong một bài và cách sắp xếp các thanh bằng – trắc theo quy luật như đã nêu trên.
Về cách gieo vần, thất ngôn bát cú Đường luật được quy định một cách chặt chẽ về niêm và vần. Cụ thể, các tiếng ở cuối các câu thứ nhất, thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ tám sẽ hiệp vần với nhau.
Một số tác phẩm văn học tiêu biểu sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật là:
“Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.”
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”
(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)