
Những giống lợn nuôi ở Việt Nam bao gồm các giống lợn bản địa, giống lợn nhập khẩu và các giống lai tạo.
Giống lợn bản địa
Hiện tại, chưa có thông tin đầy đủ về việc lợn ở các vùng của Việt Nam thuộc một giống duy nhất hay nhiều giống khác nhau.
Các giống lợn truyền thống ở Việt Nam thường có nhiều mỡ và phát triển chậm, không đáp ứng nhu cầu kinh tế hiện đại. Do đó, người dân ngày càng ưa chuộng nuôi lợn lai nhập khẩu, dẫn đến nguy cơ làm mất dần các giống lợn bản địa. Một số giống lợn đã được đưa vào Danh mục nguồn gen vật nuôi quý hiếm cần bảo tồn của Việt Nam, bao gồm lợn ỉ, lợn Ba Xuyên, lợn cỏ, lợn mán, lợn Táp Ná và lợn Vân Pa.
Lợn Móng Cái
Lợn Móng Cái có nguồn gốc từ thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, và hiện đã được phân bố rộng rãi ở nhiều tỉnh phía Bắc cũng như miền Trung và Tây Nguyên. Giống lợn này có hai loại: xương to và xương nhỏ. Đặc điểm nhận diện bao gồm đầu đen với đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi trên trán và mõm trắng. Lưng, mông và cổ có màu đen hình yên ngựa, trong khi các phần còn lại màu trắng. Lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt, từ 10-16 con/lứa, khối lượng lợn con sơ sinh dao động từ 0.5-0.7 kg/con, và tỷ lệ nạc đạt 32-35%.
Lợn ỉ
Lợn ỉ là giống lợn bản địa của miền Bắc Việt Nam, hiện nay ít được nuôi vì hiệu quả kinh tế thấp và đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Giống lợn ỉ mỡ, còn gọi là lợn ỉ nhăn, có thịt ít mỡ hơn (tỷ lệ nạc chỉ đạt 36% trong khi mỡ chiếm đến 54%). Lợn ỉ trưởng thành chỉ đạt 40–50 kg sau cả năm nuôi, trong khi các giống lợn thịt khác có thể đạt 70 – 80 kg chỉ sau sáu tháng. Hiện lợn ỉ mỡ chủ yếu được nuôi ở một số hộ dân nghèo tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Từ năm 2001-2003, khu vực này có 50 lợn ỉ cái và bốn lợn đực giống được bảo tồn, nhưng đến năm 2007 chỉ còn 30 lợn cái và bốn lợn đực.
Lợn mán
Lợn mọi, hay còn gọi là heo mọi hay heo đốm, là một giống lợn nhỏ được lai tạo từ lợn nhà và lợn rừng, chủ yếu xuất hiện tại miền Trung Việt Nam. Chúng được nuôi thả, thường có trọng lượng chỉ khoảng 10 kg, với đặc điểm lưng cong và bụng ỏng, rất đáng yêu. Thịt của chúng săn chắc, thông minh và rất sạch sẽ, có thể làm vật nuôi hoặc nguyên liệu cho nhiều món ăn ngon. Heo mọi nổi bật với trí thông minh và sự sạch sẽ hơn các giống lợn khác, với kích thước chỉ bằng một chú chó con khi trưởng thành.
Lợn sóc

Lợn sóc, còn được gọi là lợn đê, là giống lợn truyền thống của người Êđê và M'nông. Giống lợn này rất phù hợp với điều kiện và đặc điểm địa hình của các buôn làng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Trước đây, các buôn làng thường xây nhà sàn cao để tránh lũ và thú dữ, và dưới sàn là nơi nuôi lợn. Ngày nay, các buôn làng đã chuyển sang xây chuồng riêng biệt để cách xa nhà, nhằm phòng tránh dịch bệnh.
Lợn cỏ
Lợn cỏ, hay còn gọi là lợn đê hoặc lợn cắp nách, là giống lợn bản địa của Việt Nam với kích thước nhỏ bé, gầy gò và chậm lớn. Chúng chủ yếu xuất hiện ở các tỉnh miền Trung, đặc biệt là khu IV cũ, nơi nền kinh tế nghèo nàn và việc quản lý kém đã dẫn đến tình trạng thoái hóa giống do phối giống cận huyết. Hiện nay, lợn cỏ vẫn được nuôi như một đặc sản của vùng đất nghèo.
Lợn đen Lũng Pù
Lợn đen Lũng Pù là giống lợn bản địa của Mèo Vạc, hiện được chăn nuôi tại 4 huyện của tỉnh Hà Giang. Chúng có thân hình lớn, sau 10 đến 12 tháng nuôi có thể đạt trọng lượng từ 80 đến 90 kg. Lông lợn đen, dày và ngắn, da thô ráp, tai nhỏ và cụp, mõm dài vừa phải. Trung bình, lợn đen Lũng Pù có 10 vú và đẻ khoảng 1,5 đến 1,6 lứa mỗi năm. Giống này có hai loại hình: một loại có 4 chân trắng với đốm trắng ở trán và mõm, loại còn lại là màu đen tuyền. Đây là giống lợn phổ biến nhất và có chất lượng tốt nhất so với các giống lợn địa phương khác ở Hà Giang.
Lợn Vân Pa
Giống lợn Vân Pa là đặc sản lâu đời của đồng bào dân tộc Vân Kiều - Pa Cô, sinh sống tại hai huyện miền núi Hướng Hoá và Đakrông của tỉnh Quảng Trị. Lợn trưởng thành của giống này chỉ nặng từ 30 đến 35 kg. Chúng có nhiều đặc điểm giống động vật hoang dã như tính bầy đàn, khả năng tự kiếm ăn tốt, chịu đựng kham khổ và sức kháng bệnh tốt. Thịt của lợn Vân Pa rất thơm ngon.
Lợn Khùa
Lợn Khùa là giống lợn bản địa ở miền núi Quảng Bình, do người dân tộc Khùa nuôi theo hình thức thả rông, tự kiếm ăn mà không cần chuồng trại. Lông của lợn Khùa có thể là đen toàn thân, đen với các điểm trắng ở 4 chân, hoặc có loang trắng trên thân. Mõm của chúng dài và chắc khỏe, lưng khá thẳng.
Lợn Mường Khương
Lợn Mường Khương là giống lợn phổ biến ở vùng núi phía Bắc, gắn bó với đời sống người H’Mông và được nuôi chủ yếu tại tỉnh Lào Cai, đặc biệt là ở huyện Mường Khương. Đây là một trong ba giống lợn quý hiếm ở miền Bắc Việt Nam, có thân hình to lớn, lưng thẳng, rất dễ ăn và chịu rét tốt hơn các giống lợn khác. Tuy nhiên, thịt của chúng không được đánh giá cao, lợn đẻ ít con và việc chăm sóc con non không tốt. Giống lợn này chủ yếu được nuôi ở vùng trung du Bắc Bộ.
Lợn Mẹo
Lợn Mẹo, hay còn gọi là lợn Mèo, là giống lợn truyền thống của người H'Mông, được nuôi chủ yếu ở các xã miền núi của Nghệ An, Hà Tĩnh, Lào Cai và Yên Bái. Được thuần hóa từ rất lâu đời, lợn Mẹo phát triển mạnh mẽ ở vùng núi cao với khí hậu mát mẻ quanh năm. Chúng được hình thành tại vùng núi Trường Sơn, nơi có địa hình đồi núi rộng rãi, thích hợp cho việc thả rông. Sau hàng trăm năm sống ở đây, lợn Mẹo đã hoàn toàn thích nghi với điều kiện sinh thái và tập quán chăn nuôi của người H'Mông.
Lợn Táp Ná
Lợn Táp Ná là giống lợn nội địa của Việt Nam, có nguồn gốc lâu đời chủ yếu từ huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng. Giống lợn này được nuôi từ lâu và được biết đến với nguồn gene quý của vật nuôi bản địa. Người dân ở Thông Nông chủ yếu giao dịch mua bán lợn tại chợ Táp Ná, từ đó giống lợn này được đặt tên là lợn Táp Ná. Ngoài việc nuôi phổ biến ở các bản làng hẻo lánh, lợn Táp Ná còn được nuôi ở các vùng núi cao hiểm trở của huyện Thông Nông.
Giống nhập nội
Tại Việt Nam, các giống lợn nhập khẩu rất đa dạng, chủ yếu đến từ các quốc gia như Liên Xô, các nước Đông Âu và Mỹ.
Lợn Yorkshire
Lợn Yorkshire, còn gọi là lợn Đại Bạch, có nguồn gốc từ vùng Yorkshire của Anh. Hiện nay, giống lợn này được nuôi rộng rãi trên toàn thế giới nhờ khả năng thích nghi vượt trội so với các giống lợn ngoại khác. Lợn Yorkshire có bộ lông trắng toàn thân, tai đứng, trán và ngực rộng, cơ thể chắc chắn, khả năng nuôi con tốt, chịu kham khổ và chất lượng thịt cao. Con đực trưởng thành có thể nặng từ 300 đến 400 kg, trong khi con cái nặng từ 230 đến 300 kg. Tại Việt Nam, lợn Đại Bạch được nhập từ Hoa Kỳ vào năm 1964 và được biết đến với tên gọi Henry. Giống lợn này rất phổ biến từ những năm 70 đến 80 và sau đó các dòng lợn Yorkshire từ các quốc gia khác cũng được nhập khẩu. Hiện nay, giống lợn Đại Bạch Nga đã phần lớn được thay thế bởi các giống lợn Yorkshire.
Lợn Landrace
Lợn Landrace tại châu Âu rất phổ biến, và những giống lợn nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ Đan Mạch. Chúng có thân hình thon dài, lông trắng toàn thân, mõm dài và thẳng, tai to hướng về phía trước che kín mắt, cơ thể hơi lép và bốn chân hơi yếu. Lợn Landrace nổi bật với khả năng đẻ nhiều và tỷ lệ nạc cao.
Lợn Duroc
Lợn Duroc có nguồn gốc từ Bắc Mỹ, nổi bật với thân hình chắc khỏe và lông màu từ nâu nhạt đến nâu sẫm. Chúng có bốn chân to khỏe và cao, đi lại vững vàng, tai nhỏ và ngắn, gập về phía trước, mông và vai nở, tỷ lệ nạc cao và chất lượng thịt rất tốt.
Lợn Pietrain
Lợn Pietrain, xuất xứ từ Bỉ và được đặt tên theo làng Pietrain thuộc vùng Wallon, Brabant, có lông da màu trắng đen xen lẫn. Chúng có tai đứng, đầu vừa phải, mõm thẳng, bốn chân thẳng, mông nở và lưng rộng với đùi to, nổi bật với tỷ lệ nạc cao nhất trong các giống lợn. Tuy nhiên, giống lợn này có nhược điểm là tim yếu, khả năng chịu đựng kém và nhạy cảm với stress. Để cải thiện năng suất thịt mông và tỷ lệ nạc, lợn Pietrain thường được lai với giống Duroc để tạo ra những con lợn “đực cuối cùng”.
Lợn Hampshire
Giống lợn này có nguồn gốc từ Bắc Mỹ từ thế kỷ 19, với màu lông đen toàn thân và vùng ngực cùng chân trước có màu lông trắng. Chúng có tai thẳng, đầu vừa phải, mõm thẳng, và chân khỏe mạnh.
Lợn Berkshire
Lợn Berkshire được nhập khẩu vào Việt Nam vào năm 1959. Mặc dù chúng có khả năng thích nghi khá tốt, nhưng khả năng sản xuất và lai tạo với các giống lợn nội không bằng các giống lợn khác, dẫn đến việc chúng bị loại bỏ vào những năm 1970. Sau thập niên 70, giống lợn này không còn được ưa chuộng ở nhiều quốc gia và dần bị ngừng sử dụng. Hiện nay, lợn Berkshire được nuôi dưới dạng bảo tồn tại Anh. Giống lợn Berkshire nhập vào từ những năm 1920 đã phát triển thành giống lợn Ba Xuyên hiện nay ở Nam Bộ.
Lợn Cornwall
Lợn Cornwall có nguồn gốc từ các quận Cornwall, Devon và Essex của nước Anh. Giống lợn này được nhập vào Việt Nam vào năm 1974 và sau đó được nuôi thử nghiệm tại Ba Vì qua Hungary. Do không phù hợp với khí hậu, lợn đã được chuyển đến nông trường giống lợn Triệu Hải vào năm 1976. Đến năm 1993, trong quá trình cải cách đàn lợn tại các tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, giống lợn này đã hoàn toàn bị loại bỏ khỏi khu vực Bình – Trị – Thiên.
Giống lai
Lợn Ba Xuyên
Lợn Ba Xuyên, hay còn gọi là heo bông, có nguồn gốc từ vùng Ba Xuyên, hiện thuộc tỉnh Sóc Trăng. Giống lợn này được phát triển từ sự kết hợp giữa các giống lợn địa phương với lợn Hải Nam, lợn Craonnaise và lợn Berkshire. Chúng có trọng lượng trưởng thành từ 120 đến 150 kg, đẻ trung bình 8-9 con mỗi lứa và chăm sóc con rất tốt. Lợn Ba Xuyên có nhiều mỡ, với tỷ lệ nạc chỉ khoảng 39-40%. Loại lợn này thường được dùng làm nái nền để lai với giống đực ngoại nhằm tạo ra con lai phục vụ cho thịt thương phẩm.
Lợn Thuộc Nhiêu
Lợn Thuộc Nhiêu là giống lợn lai giữa lợn Bồ Xụ và lợn Yorkshire, xuất phát từ vùng Thuộc Nhiêu, huyện Châu Thành và Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Chúng có lông trắng và có thể có vài đốm đen nhỏ. Giống lợn này có khả năng chịu đựng điều kiện chăn nuôi kham khổ, sử dụng tốt thức ăn nghèo protein, chăm sóc con hiệu quả và chống chịu bệnh tốt, rất phù hợp với chăn nuôi gia đình. Lợn Thuộc Nhiêu có nhiều mỡ, với tỷ lệ nạc đạt khoảng 40-42%. Hiện nay, giống lợn này chủ yếu còn ở các vùng sâu, vùng xa, các khu vực khác đã được cải tiến bằng cách lai với lợn Yorkshire.