Các khái niệm vật lý là những mô tả về tính chất lượng bản của các đối tượng và hiện tượng trong tự nhiên, chẳng hạn như khối lượng, trọng lượng, thể tích, vận tốc, lực, v.v. Khi đo lường các khái niệm này, chúng ta thu được giá trị số đi kèm với một đơn vị đo (còn gọi là đơn vị cơ sở của khái niệm đó).
Biểu tượng hóa các khái niệm vật lý
Thường thấy, các biểu tượng của các khái niệm vật lý được lựa chọn từ các chữ cái đơn trong bảng chữ cái Latinh hoặc Hy Lạp, và được viết nghiêng. Cả chữ in hoa và chữ thường được sử dụng. Đôi khi, ta cũng thấy sự xuất hiện của các ký tự trên hoặc các ký tự dưới. Nếu các ký hiệu trên hoặc dưới này đã được sử dụng để biểu thị các khái niệm vật lý, chúng sẽ được viết nghiêng.
Ví dụ minh họa
- E
- cp là biểu tượng cho nhiệt dung ở áp suất cố định (Lưu ý: p là đại lượng vật lý áp suất)
Biểu diễn giá trị đo của một đại lượng
Ví dụ cụ thể:
- P = 42,3 x 10 W
trong đó
P là đại lượng vật lý công suất
42,3 x 10 là một giá trị số
W là đơn vị chuẩn của công suất trong hệ thống đo lường quốc tế SI
Đại lượng cơ sở và đại lượng phụ thuộc
Trong lĩnh vực vật lý, có rất nhiều đại lượng khác nhau và chúng cần được tổ chức một cách có hệ thống và hợp lý. Hầu hết các đại lượng này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ví dụ như vận tốc là tỷ lệ giữa quãng đường và thời gian. Vì vậy, ta cần chọn một số đại lượng làm đại lượng cơ bản và xây dựng các đại lượng khác dựa trên chúng, hay còn gọi là các đại lượng phụ thuộc từ các đại lượng cơ bản đã chọn.
Các đại lượng vật lý cơ bản là những đại lượng tồn tại độc lập, đặc trưng cho các thuộc tính cơ bản nhất của sự vật và hiện tượng. Bao gồm bảy loại: chiều dài, khối lượng, thời gian, nhiệt độ, cường độ dòng điện, cường độ sáng và lượng chất.
Các đại lượng vật lý dẫn xuất là cách biểu diễn các thuộc tính của sự vật và hiện tượng, chúng được định nghĩa từ các đại lượng cơ bản thông qua các phương trình vật lý.
- Đơn vị đo
- SI