Trên thực tế, người học dễ có khuynh hướng sử dụng ngôn ngữ một cách khô khan, máy móc trong cách áp dụng cấu trúc miêu tả liệt kê số liệu, xu hướng trong IELTS Writing Task 1. Mục đích của bài viết này là trình bày và giải thích những lỗi diễn đạt trong IELTS Writing Task 1 thường mắc phải trong việc sử dụng các cấu trúc mô tả trong Task 1, cụ thể trong các dạng biểu đồ số liệu.
Phần nội dung
Về bản chất, dựa theo nguyên tắc trên, các cấu trúc mô tả số liệu có thể được quy về hai thành phần cơ bản như sau:
Chủ từ không mang ý nghĩa về số lượng / tỷ lệ (trong trường hợp diễn đạt tăng – giảm)
Trong các biểu đồ số liệu trong IELTS (ví dụ: biểu đồ đường thẳng, biểu độ cột, bảng, v.v,), đối tượng được đề cập đến chủ yếu là các số liệu. Các số liệu này đo hàm lượng, mức độ của một sự vật, sự việc nhất định mà đang là nội dung của biểu đồ đó. Vì vậy, trong các cấu trúc mô tả số liệu cơ bản trong Task 1, chủ từ thường mang nghĩa liên quan đến số liệu.
Ví dụ: số lượng người tham gia phương tiện giao thông công cộng; tỉ lệ tham gia thể thao của nam tuổi vị thành niên, hàm lượng thức ăn nhanh được tiêu thụ, v.v.
Trong phần bài Task 1, ta có thể đưa số liệu về chủ yếu làm 3 dạng, đó là:
The number of + N (dùng để chỉ số lượng của những thứ đếm được)
The amount of + N (dùng để chỉ hàm lượng của những thứ không đếm được)
The percentage of + N (dùng để chỉ tỉ lệ phần trăm)
Những cấu trúc vừa liệt kê như trên thông thường được dùng với vai trò là chủ từ, và đi kèm ngay sau chúng là một động từ để thể hiện sự diễn biến của số liệu.
Ví dụ: The number of international students who came from China increased to 1000 students.
Dựa theo nguyên tắc trên, xét các câu như sau:
“People who participated in community service fluctuated between 100 and 200 people. “
“Beef increased to 500 grams per week.”
Hai câu như trên đang mắc phải lỗi sai về chủ từ. Rõ ràng có thể thấy, động từ trong hai câu trên là động từ dùng để mô tả về hành vi, diễn biến của các số liệu, do đó cần được gán với các chủ từ mang nghĩa là số liệu (the number of, the amount of, v.v.). Trong khi đó, chủ từ trong hai câu trên lại đang không thể hiện nghĩa này mà lại đang ám chỉ các khái niệm được đo lường, thay vì loại số liệu đo lường chúng.
Hai câu trên có thể được sửa lại theo cú pháp đúng trong Task 1 như sau:
The number of people who participated in community service fluctuated between 100 and 200 people.
The amount of beef increased to 500 grams per week.
Sai phần bổ trợ của chủ từ
Như đã đề cập như, chủ từ chính trong các cấu trúc diễn đạt trong Task 1 chủ yếu là số liệu. Tuy vậy, một phần quan trọng không kém chính là thành phần bổ trợ cho trong cụm chủ từ này, tức thành phần xuất sau “the number/amount/percentage of” – thể hiện các sự vật, sự việc được đo lường.
Một cụm chủ từ đầy đủ trong Task 1 thường mang một cấu trúc như sau:
Trong đó, Noun ở đây ám chỉ sự vật, đối tượng cụ thể có thể được đo lường. V-ing/V3 ám chỉ hành động của sự vật, đối tượng đó (dùng V-ing khi hành động đó mang tính chủ động, và V3 khi mang tính bị động). Trên thực tế, đây chính là cấu trúc mệnh đề quan hệ lược bỏ (the number/ amount/ percentage of + Noun which/ who V/ be V3). Complement là thành phần bổ trợ thêm về địa điểm và thời gian.
Ví dụ: The percentage of visitors staying on cruise ships (the percentage of visitors who stay on cruise ships) (Tỉ lệ phần trăm các khách ở trên tàu du lịch)
The amount of electricity produced in France (The amount of electricity which is produced in France) (Lượng điện được sản xuất ra ở Pháp)
Từ đó, xét một câu như sau: The amount of CO2 emitting in Australia was 8 metric tonnes
Cụm chủ từ trong câu trên đang bị mắc lỗi về cách diễn đạt, cụ thể ở từ “emitting”.
Trong trường hợp trên, người viết đang nhầm lẫn giữa cách sử dụng của V-ing và V3 sau danh từ CO2. V3 là cách rút gọn của mệnh đề “which + be + V3” – diễn đạt hành động bị động, trong khi V-ing là rút gọn của mệnh đề “which + V” – diễn đạt sự chủ động.
Trên thực tế, CO2 không thể tự thải mà “bị” hoặc “được” thải, vì vậy cần thành phần bổ nghĩa diễn đạt sự bị động.
Câu đúng sẽ là: “Hàm lượng khí CO2 được thải ra là 8 metric tonnes – The amount of CO2 emitted was 8 metric tonnes.
Xét một ví dụ tương tự như sau: Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ là 24%.
Trong ví dụ này, lỗi phổ biến là sử dụng danh từ chỉ khái niệm trừu tượng ngay sau chủ từ “tỷ lệ của”. Những chủ từ như số lượng, lượng, và tỷ lệ thường kết hợp với các danh từ cụ thể – thứ mà có thể ước lượng, đo đếm được. Trong trường hợp này, “Thất nghiệp” là một danh từ chỉ khái niệm trừu tượng, nên không thể kết hợp với chủ từ “tỷ lệ của”
Một câu chính xác hơn là: “Tỷ lệ người thất nghiệp tại Hoa Kỳ là 24%”