Rau càng cua | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Magnoliids |
Bộ (ordo) | Piperales |
Họ (
| Piperaceae |
Chi (genus) | Peperomia |
Loài (species) | P. pellucida |
Danh pháp hai phần | |
Peperomia pellucida (L.) Kunth, 1816 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Piper concinnum Haw. Peperomia translucens Trel. Piper pellucidum L. |
Cải cúc (danh pháp khoa học: Peperomia pellucida) là một loại rau thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae). Loài rau này thường mọc hoang ở những vùng có khí hậu nhiệt đới, sống một năm, và ăn sống có vị chua giòn rất hấp dẫn, đồng thời chứa nhiều dinh dưỡng.
Rau cúc còn được gọi với nhiều tên khác nhau trong tiếng Việt như rau tiêu, đơn kim, đơn buốt, cúc áo, quỷ châm thảo, thích châm thảo, tiểu quỷ châm, cương hoa thảo
Đặc điểm sinh học
Cải cúc là cây thảo nhỏ, có nhánh cao từ 20 – 40 cm, thân mảnh mai, chứa nhiều nước và hơi nhớt. Lá hình trái tim, có màu xanh trong suốt. Toàn cây màu xanh nhạt, nhẵn và nhớt, lá mọc so le, có cuống, hình dạng màng, trong suốt, thường là hình tam giác hoặc trái xoan, hơi tù ở gốc và nhọn ở chóp, dài 15-20mm và rộng gần bằng đài. Hoa mọc thành chùm dài ở đầu cây, tạo thành bông dạng sợi có cuống dài gấp 2-3 lần lá. Quả mọng hình cầu, đường kính 0,5mm, có mũi nhọn ngắn ở đỉnh. Rau khi còn nhỏ mọc thẳng, sau đó bò lan ra mặt đất, phân nhánh thành nhiều nhánh nhỏ. Rễ chùm phát triển mạnh trong môi trường ẩm ướt và mát mẻ.
Là một loại cây thân thảo, rau càng cua ưa thích các môi trường ẩm ướt như đất thấp, mương rạch, vách tường, đá. Nó thường nở hoa vào tháng Giêng hoặc tháng Tám âm lịch, có sức sống mạnh mẽ, hạt nhỏ dễ phân tán và phát triển nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi. Rau mọc tự nhiên ở nhiều nơi như bờ ruộng, vườn chuối, góc ao, bụi bầu… và xanh tốt hơn sau mưa.
Rau càng cua có hương vị hòa quyện giữa mặn, ngọt, chua, giòn và dai. Loại rau này rất giàu dinh dưỡng, đặc biệt là beta-caroten (tiền vitamin A), sắt, kali, magiê và vitamin C. Trong 100g rau có 92% nước, phosphor 34 mg, kali 277 mg, canxi 224 mg, magiê 62 mg, sắt 3,2 mg, carotenoid 4.166 UI, vitamin C 5,2 mg, cung cấp 24 calori. Theo Đông y, rau có vị đắng, tính bình.
Ứng dụng
Rau càng cua được chế biến thành nhiều món ăn bổ dưỡng và dân dã. Nó có thể trộn với các loại rau khác như rau sam, rau thơm và chấm với nước cá kho hoặc thịt kho. Món rau ăn sống với ếch chiên, thịt bò xào tái, lươn om là những lựa chọn ngon miệng và bổ dưỡng. Rau cũng có thể làm gỏi với tép bạc tươi, thịt ba chỉ luộc, đậu phộng rang giã dập, rau húng quế, xà lách với thịt bò, dầu giấm, trứng luộc; hoặc kết hợp với cá mòi đóng hộp và hành tây. Những món này giúp thanh nhiệt, giải khát, nhưng không nên dùng cho người bị sỏi thận.
Mặc dù cung cấp nhiều dưỡng chất nhưng rau càng cua lại ít năng lượng, rất phù hợp cho người giảm cân. Rau còn được sử dụng làm thuốc bổ sung cho người thiếu máu do thiếu sắt, có lợi cho tim mạch và huyết áp, hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường, táo bón và cao huyết áp.
Tại các quốc gia phương Tây, rau càng cua thường bị xem là cỏ dại. Lá của nó có thể được nghiền nát để đắp chữa sốt rét và đau đầu, dịch nhầy từ lá dùng uống trị đau bụng. Ở Trung Quốc, toàn bộ cây rau này được dùng làm thuốc trị đau nhức khớp, chấn thương và được vò nát đắp lên da để điều trị bỏng do lửa hoặc nước sôi.
Rau càng cua có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết và tiêu ứ máu. Nó thường được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, viêm ruột thừa, viêm gan, viêm dạ dày - ruột, và rối loạn tiêu hóa. Ngoài ra, rau còn được dùng để chữa vết thương, nhọt lở, chấn thương sưng đau, đặc biệt hiệu quả trong việc điều trị bệnh ngoài da như ghẻ lở (giã nát, vắt lấy nước, thêm chút muối và chấm vào vết thương để làm lành nhanh chóng).