Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo 'Thượng kinh ký sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
'Thượng kinh ký sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn 'Vào Trịnh phủ ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kỹ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp 'đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp', người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, 'truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen...”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong phủ chúa Trịnh, cung điện tráng lệ nguy nga. Mỗi công trình kiến trúc như lâu đài, cung điện đều được đặt tên riêng biệt. Có lâu đài mang tên là “Điếm Hậu mã quân túc trực” nằm bên một hồ, cột và hàng rào lớn “vòng kiểu cách đẹp mắt”, xung quanh có cây cỏ “kỳ lạ”, và những tảng đá độc đáo. Còn có công trình được gọi là “Đại Đường” hoặc “Quyển Hồng”, là một lầu cao và rộng, có những cột sơn vàng long lanh được gọi là “Gác Tía”, là nơi Thế tử thường sử dụng để uống trà, do đó còn được gọi là “phòng Trà”.
Lê Hữu Trác cảm thấy mình như lạc vào một thế giới mới, cảnh đẹp trong phủ chúa Trịnh từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến phòng trà đều là những kiệt tác văn hóa nghệ thuật do sự tài trí và lao động của nhân dân xây dựng, điều này khiến ông cảm thấy xúc động và ngưỡng mộ, cảnh đẹp trong phủ chúa Trịnh được mô tả còn phản ánh cuộc sống xa hoa của các vị vua thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang 'khác biệt so với cuộc sống của dân thường”.
Phương tiện di chuyển của vua chúa là hai cái kiệu; cả kiệu và đô nghi trượng đều được sơn vàng rực rỡ. Nơi ngồi và nằm là một chiếc sập cũng được sơn vàng, trên sập có đặt một cái võng màu đỏ. Xung quanh sập là những bộ bàn ghế vô cùng quý phái, lộng lẫy khiến cho Lê Hữu Trác phải kinh ngạc và cảm thấy “chưa bao giờ thấy những đồ vật như thế trước đây”.
Thế tử - người con của vua chúa - là một vị thần, dù chỉ mới lên 5, 6 tuổi nhưng đã mặc áo lụa đỏ, ngồi trên chiếc sập sơn vàng. Bên cạnh sập có đặt một chiếc ghế rồng cũng được sơn vàng, trên ghế có đặt một chiếc nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trước khi đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Trong cung điện, đèn sáp chiếu sáng, sau lớp màn là những người hầu cung đứng sẵn sàng, “trang điểm, mặc áo đỏ”. Không gian trong cung lấp lánh, hương thơm của hoa lan phát ra. Thật là “không gì sánh kịp với cảnh đẹp ở đây”
Vua chúa và các quan trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, một vị danh y được thưởng thức một bữa cơm ngon đến vậy. Dù chỉ được một quan đến mời ăn, nhưng “bàn ăn và các đồ dùng đều là hàng cao cấp, sang trọng và ngon miệng”. Đó là lúc mà ông thầy danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và thốt lên rằng: “lần này tôi mới biết được hương vị thật của nhà vua”.
Chốn cung cấm trong đế đô là nơi “những lính bảo đông đúc, gác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới thăm thú một số cung điện, chỉ nhìn thấy một vài khung cảnh, một số ít nhân vật, nhưng ông đã phát hiện ra cuộc sống xa hoa, sung túc của các vị vua thời Lê- Trịnh. Cuộc sống của đế vương được xây dựng trên nền mồ hôi, máu của dân chúng, mọi thứ sang trọng và ngon lành đều do lao động của người dân tạo ra, nhưng lại chỉ được một số ít người hưởng thụ “bữa cơm ngon như vậy”. Tác giả của “Thượng kinh kí sự” đã có một cách diễn đạt rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết đều được ông mô tả một cách sống động.
Lê Hữu Trác, là con cháu của dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh sống trong một môi trường phồn thịnh, trong thành cấm mà ông đã quen thuộc với mọi thứ, nhưng Trịnh phủ thì “ôi mới nghe nói”. Khi đặt chân vào lần đầu tiên, ông cảm thấy như mình đang bước vào một thế giới tiên tử:
“Trong cung cấm lạ lùng kỳ thú,
Như ngư phủ Đào xưa thuở kia!”
Coi trọng giá trị tinh thần hơn là vật chất, ông đã sống ở Hương Sơn, Hà Tĩnh, chăm chỉ tìm hiểu và học tập y học, điều trị bệnh để cứu người. Vì có tài năng và uy tín như sấm động nên được triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông đã viết một cách hóm hỉnh về biểu hiện công danh: “Chạy như ngựa lồng, tôi đã gặp phải một lần, khổ quá không thể tả hết!”. Vài chục năm sau đó, Cao Bá Quát cũng châm biếm rằng: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Khi tiếp xúc với cảnh và con người trong Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ hãi, cũng có khi “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Khi kiểm tra mạch của một đứa trẻ 5, 6 tuổi, ông phải vái lạy hai lần mỗi lần bốn lạy!
Khi viết đơn thuốc, ông đã phải trải qua một cuộc đấu tranh tư duy khốc liệt xung quanh vấn đề danh lợi, đạo đức và sự thoải mái. Ông nghĩ: Nếu tôi làm việc này có kết quả ngay lập tức, tôi sẽ bị ràng buộc bởi danh lợi, và không thể nào trở về với cuộc sống tự do, thoải mái và hòa hợp với thiên nhiên. “Lưng thẳng, lộc nên từ” đó là phương châm của ông.
Lương tâm của một danh y đã nhắc nhở ông rằng “phải dốc hết cả tấm lòng thành của mình, để tiếp nối truyền thống tốt đẹp của ông cha”. Tấm lòng thành mà ông nhắc đến là tinh thần y đức cao đẹp, là sự cam kết đối với việc điều trị bệnh cứu người, coi đó là trách nhiệm sống cao quý nhất. Vì vậy, mặc dù quan Chánh đường đề xuất sử dụng các loại thuốc “phát tán gần đây”, mặc dù có nhiều danh y hàng đầu của sáu cung hai viện đang chăm chỉ theo dõi tình hình bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn giữ vững quan điểm và luận điệu riêng:
“Tôi thấy thân thể yếu đuối, mạch cảm giác như bị tê liệt. Vì vậy, cảm giác yin và yang trong cơ thể đều bị ảnh hưởng, vì vậy bây giờ phải sử dụng các loại thuốc bổ để bồi dưỡng yin và yang, tạo ra nền tảng vững chắc cho sức khỏe... ”
Điều này cho thấy tài năng và lòng thành của Lê Hữu Trác, một danh y lớn coi trọng giá trị đạo đức hơn là danh lợi, sống một cuộc sống trong sạch, thích tự do, và coi việc điều trị bệnh cứu người là lẽ sống cao quý nhất. Biệt danh “Lãn Ông” chính là biểu hiện của điều này: ông là một người lười biếng, không thích làm quan, và không quan tâm đến danh lợi.
Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” thật sâu sắc và lôi cuốn, như là một hành trình khám phá cung điện Thăng Long thời kỳ Lê - Trịnh. Nó không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một tài liệu quý giá về lịch sử.
Đoạn văn đã phản ánh một cách chân thực cuộc sống xa hoa, phong cách sống của vua chúa và các quan lại thời Lê - Trịnh trong cung điện đẹp mơ mộng nơi Trịnh phủ.
Cách viết của Lãn Ông thật độc đáo và hấp dẫn. Từ cách miêu tả, cách diễn đạt cho đến việc lồng ghép ý nghĩ và cảm xúc, tất cả đều rất tự nhiên, hóm hỉnh. Sự linh hoạt và sáng tạo trong ngôn ngữ của tác giả đã làm cho đoạn văn trở nên sống động, cuốn hút.
Đoạn kí sự “Vào Trịnh phủ” chứa đựng một tinh thần thơ phong phú, một tâm hồn cao quý đã được phản ánh qua từng dòng văn. Nó là biểu hiện của sự tinh tế và nhân văn trong tác phẩm.