Đỗ Phủ được coi là một thi sĩ lớn trong văn học Trung Hoa, với thơ trữ tình chứa đựng nỗi buồn sâu lắng, lòng nhân đạo và tình cảm đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh. Bài thơ của ông về mùa thu, với tâm trạng u buồn, sầu bi, đã thêm một chất lượng sâu sắc, phong phú cho vẻ đẹp mùa thu.
Thu hứng của Đỗ Phủ như một khúc ca thu sâu lắng và buồn bã, thấm đẫm nỗi cô đơn trong tâm hồn.
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vũ sơn, Vũ giáp khí hóa mây sương.
Giữa bầu trời cao vút, những đám mây trôi dạt,
Chạm trời cao vút, làm tiếp đất âm dương.
Hoa tùng, cúc lấp lánh dưới ánh mặt trời,
Có bóng cây đứng đều vững chắc trong lòng người.
Bên đường quân y chỉnh đao xích,
Dịch thơ:
Rừng phong lác đác hạt móc sa,
Non nước hiu hắt, khí thu lòa.
Bờ trời sóng vỗ lòng sông sâu,
Đất mây đan cửa ải xa xăm.
Khóm cúc rơi thêm dòng lệ xưa,
Thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay súng đao,
Bạch thành, chày vang bóng ác tà.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh rừng phong hoang vu, lạnh lẽo, thậm chí điêu tàn và xơ xác. Ngàn núi đều nhuốm màu đau thương, lạnh lẽo, xơ xác đến tàn tạ, những từ láy gợi hình, biểu cảm như “hiu hắt, lác đác” một lần nữa nhấn mạnh vẻ đẹp hoang vu, mênh mông rợn ngợp nơi đây. Đỗ Phủ đã sử dụng thành công những thi liệu cổ điển, hình ảnh ước lệ, nhắc tới nùa thu là nhớ tới rừng phong, hạt móc sương sa. Cả rừng phong và sương đều là những dấu hiệu báo mùa thu ở Trung Quốc. Trước đây, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng thi liệu cổ ấy như một biểu tượng cho mùa thu, cho sự xa cách, cô đơn và hoang vu:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ, ảm đạm, lạnh lẽo. Bức tranh mùa thu tiếp tục được khắc họa với những nét đặc tả đầy ấn tượng:
Bờ trời sóng vỗ lòng sông sâu
Bề mặt đất phủ mây, cửa ải xa xa
Không gian rộng lớn, hoang vu lại được nhấn mạnh bởi hình ảnh sóng gợn trên bầu trời. Sự kết hợp giữa sông và trời tạo nên một cảm giác khó thở, ngột ngạt. Đám mây trên cửa ải xa là biểu tượng cho sự xâm lấn, bao trùm, tăng thêm sự trống trải, cô đơn. Cảnh sắc ở đây vừa hoành tráng vừa dữ dội, tạo thành một bức tranh rất ấn tượng về vùng đất Vu sơn, Vu giáp âm u hùng vĩ. Những câu thơ tiếp theo tiết lộ nỗi lòng của nhà thơ:
Khóm cúc trào dòng lệ cay đắng
Chiếc thuyền buộc chặt mối tình quê
Hình ảnh khóm cúc tuôn dòng lệ chính là đôi mắt buồn của nhà thơ rơi lệ. Những giọt lệ kia giống như những cánh hoa cúc nhỏ thầm lặng. Con thuyền là biểu tượng cho sự khao khát quay về quê hương, nhưng cũng chỉ là con thuyền cô đơn, lẻ loi trôi dạt vô định nơi phương trời. Câu thơ cuối có sự xuất hiện của hình ảnh con người, âm thanh xôn xao, nhưng liệu đó có phải là âm thanh tươi vui của sự sống không, hay chỉ là cách để nhà thơ bày tỏ sự buồn bã, thê lương của cảnh vật.
Giục kẻ tay đao thước lạnh lùng
Thành bạch chày vang, bóng ác tà
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh hơn cho việc may áo ấm. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi, không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo kết thúc bài thơ, mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang.
Bằng một tâm hồn thu buồn mênh mang, cô đơn, những vần thơ của Đỗ Phủ gây ám ảnh, gieo vào tâm trí người đọc cảnh tượng mùa thu buồn, cô đơn và lạnh lẽo. Sự kết hợp tài tình của từ láy, hình ảnh ẩn dụ, chất liệu cổ điển và hình ảnh ước lệ, Đỗ Phủ mở ra không gian nghệ thuật đầy thu cho độc giả, góp thêm vào bản tình ca mùa thu của văn học một nét riêng.