Ngay từ những dòng đầu, Chính Hữu đã diễn tả nền tảng của tình đồng chí gắn bó giữa “anh” và “tôi” – những người lính cách mạng.
Quê hương anh đất mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo toàn sỏi đá.
Anh và tôi là những người xa lạ
Từ những miền khác nhau, chẳng hẹn mà gặp,
Súng kề súng, đầu chạm đầu,
Đêm lạnh chung chăn tạo nên tri kỷ.
Đồng chí!
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” cùng với giọng điệu tâm tình, nghệ thuật sóng đôi cho thấy tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng trong hoàn cảnh. Họ là những người nông dân áo vải, xuất thân từ những miền quê nghèo khó như miền biển hay vùng đồi núi trung du. Không hẹn mà gặp, họ tìm thấy nhau trong lòng yêu nước. Từ những vùng đất xa lạ, họ “chẳng hẹn mà quen nhau” vì lý tưởng chung. Như trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ - Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ - Quen nhau từ buổi “một, hai” – Súng bắn chưa quen – Quân sự mươi bài – Lòng vẫn cười vui kháng chiến”. Trong môi trường quân đội, tình đồng đội thay thế cho tình cảm gia đình, sự xa lạ ban đầu dần tan biến. Chiến đấu bên nhau, họ càng cảm nhận sự hòa hợp, gắn bó với đồng đội có chung nhiệm vụ và lý tưởng: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh sóng đôi, điệp từ “súng”, “đầu” tạo ra giọng điệu thiết tha, trầm lắng nhấn mạnh tình cảm của người lính. Họ cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, giữ gìn tự do, độc lập. Sự đồng cảnh, đồng cảm giúp họ gắn bó, chia sẻ mọi gian khổ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Từ gian nan, tình cảm trong họ đã nảy nở, trở thành những người bạn tâm giao, tri kỷ, thấu hiểu nhau, tạo thành đồng chí. Hai chữ “Đồng chí” kết thúc khổ thơ đặc biệt và sâu lắng! Giống như một nốt nhạc làm sáng cả đoạn thơ, là nơi hội tụ, kết tinh của tình cảm đẹp thời đại mới: tình giai cấp, tình đồng đội, tình bạn bè trong chiến tranh.
(Nguồn: Facebook)