1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
4. Bài mẫu số 4
Đề bài: Cảm nhận đoạn trích Cảnh ngày xuân của em
4 bài viết mẫu Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân của em
1. Cảm nhận đoạn trích Cảnh ngày xuân, mẫu số 1:
Tuyệt phẩm 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du không chỉ chứa đựng những giá trị xã hội sâu sắc mà còn đưa đọc giả đắm chìm trong những đoạn thơ tả cảnh tinh tế. Một ví dụ xuất sắc là đoạn 'Cảnh ngày xuân' (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).
Đoạn trích này mở đầu tác phẩm, khi chị em Thúy Kiều dự lễ tảo mộ vào ngày Tết Thanh minh. Mùa xuân làm mới tươi tắn cả thiên nhiên và con người. Dưới đôi mắt 'xanh non biếc rờn' của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám, bức tranh xuân rực rỡ hiện lên đầy sức sống.
Bốn câu thơ đầu mang đến hình ảnh của mùa xuân tươi đẹp, trong trẻo:
'Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'...
Không gian xuân được mô phỏng bởi hình ảnh những cánh én đang lượn bay như thoi đưa. Sức mạnh, sức khỏe của những cánh đưa thoi thể hiện rõ rằng mùa xuân đang ở đỉnh phồn thịnh. 'Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi' cho thấy mùa xuân tươi đẹp đã trôi qua đầy sáu chục ngày, hiện giờ là thời điểm tháng ba.
Bức tranh thiên nhiên được tạo nên từ màu xanh non tươi mát của thảm cỏ bao la: 'Cỏ non xanh tận chân trời'. Sắc xanh của cỏ tháng ba là màu xanh non, mềm mại và êm dịu. Hình ảnh này khiến cho chúng ta như thấy cả một biển cỏ mở ra rộng lớn, vô cùng đẹp mắt. Những bông hoa lê trắng tinh khôi điểm xuyết trên nền xanh tươi. Tác giả chọn từ 'vài bông' để ám chỉ rằng những bông hoa lê này đang nở dần, chưa đầy đủ. Bức tranh này giống như sự e ấp của thiếu nữ trong ngày xuân. Bằng cách này, tác giả sử dụng kỹ thuật hội hoạ phương Đông, thể hiện qua bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của Nguyễn Du có thể đánh bại trái tim của người đọc, hòa mình vào cảnh đẹp tĩnh lặng. Hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ liên kết với bức tranh xanh ngọc của bầu trời, cành lê đặc điểm bởi vài bông hoa trắng. Thảm cỏ non mênh mông nhấn mạnh mùa xuân tới tận chân trời. Những bông hoa lê trắng điểm nhẹ trên nền xanh của cỏ tạo nên một bức tranh tươi mới, tinh tế, và tràn đầy sức sống. Sự hòa quyện giữa sắc trắng của hoa lê và màu xanh non là điểm độc đáo trong tác phẩm của Nguyễn Du. Đây không chỉ là mùa xuân mới mẻ, tươi tắn, tràn đầy năng lượng, mà còn là sự thanh khiết, nhẹ nhàng, và trong trẻo.
Thiên nhiên trong trắng, tươi tắn, đầy sức sống, cùng với sự nhộn nhịp của con người, góp phần tạo nên bức tranh tuyệt vời của sự biến đổi kỳ diệu trên trái đất.
Sáu câu thơ tiếp theo chi tiết phong tục tảo mộ và du xuân trong ngày Thanh minh. Bầu không khí vui tươi của lễ hội xuân được tái hiện qua các từ ngữ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Tất cả hòa quyện với nhau, tạo nên không khí sôi động, vui nhộn, đông đúc của mùa xuân. Không chỉ là lễ hội, mà còn mang đặc điểm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
'Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm'.
Nhưng cuộc họp kết thúc, hân hoan dần tan. Sau những khoảnh khắc sống động, chị em Thúy Kiều rời khỏi buổi du xuân:
'Bóng chiều nhẹ nhàng dịu dàng về phương tây,
Chị em thơ thẩn, buông tay khỏi niềm vui.
Bước chậm theo dòng nước nhỏ,
Lần xem cảnh đẹp thanh thanh.
Dòng nước lặng lẽ uốn quanh,
Cây cầu nhỏ cuối dòng róc rách'...
Ngoài vẻ dễ thương và nhẹ nhàng của mùa xuân như đã mô tả ở các câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân tại đây mang một tông màu khác với bức tranh sôi động và nhộn nhịp của lễ hội. Cảnh vật giữ lại một cảm giác vương vấn khi cuộc du xuân kết thúc. Các từ láy như tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ không chỉ mô tả sự sống động của cảnh vật mà còn làm nổi bật tâm trạng của con người. Có vẻ như có điều gì đó mơ hồ đang ám ảnh, khiến cảnh vật trở nên u tối, mặc dù vẫn giữ được sự tươi mới của mùa xuân. Nguyễn Du sử dụng bút pháp tả cảnh để truyền đạt cảm xúc tinh tế trong tâm hồn con người, tận dụng cảnh vật để diễn đạt những xúc cảm tinh tế. Những từ láy được chọn có tính nhẹ nhàng, giảm nhẹ: 'Tà tà' mô tả ánh chiều dần nghiêng về; 'thơ thẩn' tả tâm trạng buồn bâng khuâng một cách nhẹ nhàng và không rõ ràng (tương tự với nỗi buồn 'tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn' của Xuân Diệu sau này); 'thanh thanh' không chỉ là màu xanh nhẹ nhàng mà còn là thanh thoát, thanh mảnh; từ 'nao nao' trong câu thơ diễn đạt sự chảy của dòng nước nhưng cũng truyền đạt tâm trạng buồn bã và 'nho nhỏ' gợi ý hình ảnh nhỏ xinh, vừa vặn với tâm trạng. Cảnh vật và con người dường như tương tác để tạo ra không khí u tối, lưu luyến, và buồn bã, Nguyễn Du sử dụng bút pháp mô tả cảnh ngụ tình để ám chỉ những cảm xúc tinh tế trong tâm hồn người, đặc biệt là phụ nữ, thiếu nữ. Các từ láy được sử dụng trong đoạn thơ không chỉ để mô tả cảnh vật mà còn để tạo nên những rung động tinh tế trong tâm hồn của những người, đặc biệt là phụ nữ, thiếu nữ. Có vẻ như mảnh hồ cảm xúc từng góc khuất của cảnh vật đang làm động đậy những cảm nhận về những sự kiện sắp diễn ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có kết cấu cân đối và hợp lý. Mặc dù không thể thấy rõ nhưng vẫn có thể nói rằng nó bao gồm ba phần: bắt đầu, phát triển, và kết thúc. Nguyễn Du đã thể hiện nghệ thuật miêu tả thiên nhiên một cách tinh tế, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là về mô tả cảnh xuân nhưng cũng thấy sự kết hợp với cảm xúc và chính trị (diễn tiến của cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo những sự kiện sắp diễn ra).
'Cảnh ngày xuân' là một trong những bức tranh thiên nhiên tuyệt vời nhất trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du. Đọc đoạn này, ta không chỉ trầm trồ trước vẻ đẹp của thiên nhiên rực rỡ mà còn hiểu sâu hơn về lễ hội truyền thống quan trọng: tiết Thanh minh. Nguyễn Du đã tài năng khi tạo ra một bức tranh sống động, đầy ý nghĩa,... 'Cảnh ngày xuân' sẽ mãi sống trong trái tim người yêu thơ mỗi khi năm mới về.
2. Cảm nhận của em về đoạn trích Cảnh ngày xuân, mẫu số 2:
Nguyễn Du không chỉ là một nhà văn tài năng trong việc diễn đạt tâm lý nhân vật mà còn là 'họa sĩ' với bút chữ. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' từ Truyện Kiều là một minh chứng. Ta không khỏi kính trọng và ngưỡng mộ khả năng quan sát cùng nét vẽ tài hoa của ông. Bức tranh về ngày xuân hiện ra với vẻ tươi mới, tràn đầy sức sống.
Mùa xuân là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ ca, làm cho nhiều nghệ sĩ phát sáng. Mỗi người có cách cảm nhận riêng về mùa xuân. Với Nguyễn Du, mùa xuân không chỉ liên quan đến cảnh đẹp tự nhiên và con người mà còn đắm chìm trong những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trên nền của đoạn thơ là bức tranh tự nhiên tươi đẹp nhưng cũng mang nét buồn khi hoàng hôn buông xuống.
Câu thơ đầu tiên sử dụng ngôn ngữ như tranh, sự mềm mại của từng chữ tạo nên vẻ mềm mại của cảnh sắc xuân về:
Ngày xuân, én đưa thoi
Thiều quang chín chục vượt sáu mươi
Cỏ non xanh rợn tận chân trời
Cành lê trắng điểm vài bông hoa
Khung cảnh đầy thơ, thi vị và hữu tình mở ra. Vẻ rộng lớn của thiên nhiên khi mùa xuân về được diễn đạt tinh tế và tràn đầy niềm vui. Cánh én là dấu hiệu của mùa xuân, mùa tràn ngập ấm áp, sự sống động và niềm vui trọn vẹn. 'Đưa thoi' không chỉ mô tả hình ảnh bầu trời đầy én mà còn diễn đạt sự trôi đi nhanh chóng của thời gian. Nguyễn Du, giống như Xuân Diệu, thấu hiểu về sự chông chênh của thời gian và tuổi trẻ.
Trong lúc đó, chỉ với hai nét vẽ, Nguyễn Du đã tạo ra bức tranh mùa xuân tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết tinh tế làm cho câu thơ trở nên mềm mại và tràn đầy sức sống. Màu xanh của cỏ non tạo ra sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ 'rợn' không chỉ diễn đạt xa xôi mà còn gợi lên sự rộng lớn của mùa xuân. Nó làm cho câu thơ như một ngân điệu dài, bừng sáng sức sống. Trên nền xanh của cỏ, 'một vài bông hoa' trắng tinh khôi làm cho bài thơ rực rỡ sức sống, khó có thể tắt được.
Với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như một họa sĩ tài hoa, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt vời, hòa quyện giữa đất và trời. Không khí, hương sắc và ý vị mùa xuân tràn ngập từng câu thơ.
Không khí mùa xuân tươi mới nhất trong lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh, tháng ba vui tươi
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh
Không khí phấn khởi của con người trong lễ hội tảo mộ làm cho người đọc cảm nhận được hòa quyện với không khí xuân tươi mới nhất. Con người trở thành điểm nhấn tô điểm thêm bức tranh xuân tươi đẹp đó.
Thảo luận tài tử giai nhân
Ngựa xe như sóng áo quần như lụa
Mùa xuân, 'tài tử giai nhân' hân hoan giãi bày tâm tư, tình cảm. Mọi thứ như hứng khởi trong không khí mùa xuân, nơi tình yêu bừng nở và yêu thương tràn ngập. Hình ảnh 'ngựa xe', 'áo quần' tạo nên sự sôi động, nhộn nhịp, và náo nhiệt. Nguyễn Du thông qua những hình ảnh này làm cho người đọc cảm nhận được không khí sôi động của mùa xuân.
Dồn đống gò đất ngổn ngang
Thoi vàng vó rơi trắng là bạc giấy bay
Những nghi thức mùa xuân, nhất là lễ tảo mộ, được Nguyễn Du mô tả chân thật, đẹp đẽ, gợi lên những kí ức và tình cảm sâu sắc. Hai câu thơ này làm cho người đọc xúc động, nhớ đến những người đã khuất, tôn vinh họ là nguồn cảm hứng và lòng biết ơn.
Tuy nhiên, những câu thơ cuối dường như làm cho cảnh vật và con người trở nên u sầu và hồn nhiên:
Bóng chiều buông bế ngày về tây
Chị em trầm tư buông tay bước về
Điều bước theo dòng phong khê
Nhìn phong cảnh có vẻ thanh thanh
Nhịp thơ êm đềm, trầm bổng khiến tâm hồn con người trở nên nặng trĩu và buồn bã hơn. Từ 'bóng chiều' một phần nào đó nắm bắt thời điểm chiều tà và không gian trở nên yên bình và u tịch hơn. Mỗi bước đi trở nên trầm trọng hơn khi bóng đêm bắt đầu buông xuống, và tâm trạng con người dường như chìm đắm trong nỗi buồn. Tâm sự như hòa quyện vào bức tranh thiên nhiên, làm cho nó trở nên tĩnh lặng và một cách xác xơ hơn.
Dù cảnh trong thơ của Nguyễn Du có vui hay buồn, nó vẫn mang đặc trưng riêng của nhà thơ. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là một minh chứng điển hình. Bức tranh xuân tươi, rực rỡ, sôi động và mang chút u buồn được Nguyễn Du mô tả thành công với sự nhạy bén cũng như tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ.
3. Nhận định về đoạn trích Cảnh ngày xuân, biểu mẫu số 3:
Nguyễn Du, một danh họa thiên tài, không chỉ thể hiện tình cảm sâu sắc mà còn diễn đạt tài năng xuất sắc trong việc mô tả cảnh. Với đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', ông không chỉ vẽ lên bức tranh tươi sáng, tràn ngập nét đẹp xuân, mà còn hòa mình vào không khí rộn ràng của lễ hội.
Kết cấu của đoạn thơ tuân theo dòng thời gian, phản ánh sự biến động của tâm trạng con người trong hành trình du xuân: bắt đầu bằng bốn câu miêu tả cảnh xuân, tiếp theo là tám câu tả cảnh lễ hội Thanh minh, và sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều ra về.
Dòng thơ mở đầu mang lại bức tranh thiên nhiên sống động, tươi mới và đầy năng lượng xuân.
'Bên bờ xuân, én kia đưa cánh thoi
Mười hai tháng vượt, chín chục năm qua'
Nhà văn sử dụng thành công kỹ thuật biểu đạt nghệ thuật giữa sự kích thích và mô tả. Hai câu đầu không chỉ nói về thời gian mà còn mô tả không khí của mùa xuân. Ngày xuân trôi qua nhanh chóng, từ tháng giêng, tháng hai, bước sang tháng ba. Câu đầu tiên mô tả cảnh xuân với những chú én bay lượn rộn ràng giữa bầu trời xanh biếc, giống như thoi đưa. Trong bài thơ 'Mùa xuân chín,' Hàn Mặc Tử viết: 'Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,' còn Nguyễn Du lại viết khác: 'Cỏ non xanh tận chân trời.' Tại đây, nhà thơ muốn diễn đạt vẻ đẹp của cỏ xanh non, mỡ màng, ngọt ngào trải rộng đến chân trời, đồng thời nhấn mạnh ảnh hưởng sâu sắc của Nguyễn Du đối với Hàn Mặc Tử. Chỉ với hai câu thơ:
'Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng chói sáng, một vài đóa hoa'
Ngoài vẻ đẹp của hoa, Nguyễn Du còn cảm nhận được sự mềm mại, uốn lượn, nhỏ nhắn của dòng nước. Dòng nước, cây cầu bị nhuốm bởi sắc vàng đỏ của ánh nắng mặt trời chiều tà. Thế nhưng, chính nhờ cảnh người đi trẩy hội, hối hả trong làn khói hương nồng nàn, đã tạo nên sự sống động cho bức tranh. Nhịp thơ nhẹ nhàng, hình ảnh tinh tế, âm thanh dịu dàng, thanh thoát của từng dòng thơ cũng làm cho chúng ta cảm nhận được vẻ trong lành, thuần khiết của mùa xuân.
Đây chính là bức tranh xuân được tạo lên từ những gam màu tinh tế, quý phái, hòa quyện giữa xanh và trắng; sự kết hợp ấm áp của màu vàng, đỏ không chói lọi. Đường nét và hình khối được nhà thơ tả một cách thanh mảnh ở mọi góc nhìn. Cánh én cong vút, người tham gia hội xuân làm cho bức tranh trở nên ấm cúng; tạo ra cảnh vật 'nửa thực tế, nửa mơ mộng'.
'Gần xa náo nức tiếng yến hò
Anh chị em hân hoan bước xuân chơi
Vui đùa cùng những tài tử xinh đẹp
Ngựa xe như nước, áo quần như nàng thơ'
Tiếp theo, Nguyễn Du mô tả cuộc du xuân của chị em Kiều. Họ tận hưởng không khí rộn ràng của lễ hội, nơi chim yến hò đông đảo. Chị em Kiều, bước đi nhẹ nhàng, ngắm nhìn vẻ đẹp của quê hương trong cuộc du xuân, thả thoi tiền giấy bay trong gió. Sử dụng các từ ngữ mô tả như: gần xa, náo nức, tài tử, xinh đẹp, vui đùa, hình ảnh so sánh 'ngựa xe như nước' và 'áo quần như nàng thơ' Nguyễn Du đã mô tả một cách sống động cuộc du xuân của chị em Kiều trong không khí lễ hội sôi động, tưng bừng. Qua cuộc du xuân này, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh văn hóa truyền thống sôi động. Mặc dù là cuối xuân, nhưng cảnh xuân vẫn hiện hữu, rộn ràng với những người nam nữ trẻ, tài tử, và những người đẹp như chim én hò oanh, đều đuối.
Trích đoạn 'Cảnh ngày xuân' là một bức tranh xuân tươi sáng, tràn ngập vẻ đẹp, một tác phẩm 'thi trung hữu họa'. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du thật tuyệt vời, được tạo nên từ tâm hồn nhạy cảm và bút pháp tài năng của nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
4. Cảm nhận cá nhân về đoạn trích Cảnh ngày xuân, mẫu số 4:
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc Việt Nam và là một biểu tượng văn hóa toàn cầu. Truyện Kiều, tác phẩm thiên tài của ông, là một kiệt tác không thể phủ nhận. Đoạn trích Cảnh ngày xuân, một trong những đoạn hay nhất của Truyện Kiều, thuộc phần một - mô tả cuộc gặp gỡ và hứa hôn của nhân vật chính. Sau khi vẽ nét đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du mô tả hình ảnh tươi sáng của mùa xuân và cuộc du xuân của thanh niên và thiếu nữ tài năng. Đoạn thơ Cảnh ngày xuân, từ câu 39 đến 56, là ví dụ điển hình cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của Nguyễn Du.
Mở đầu bài thơ, tác giả mô tả bức tranh sinh động của mùa xuân:
Ngày xuân, đàn én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã vượt qua sáu mươi
Cỏ non xanh mơn mởn tận chân trời
Cành lê trắng tinh khôi, điểm đôi, vài bông hoa
Không gian nghệ thuật mở ra trước mắt, sắc màu thơ ngút ngàn. Giữa bầu trời rộng lớn, những đàn én lượn qua lượn lại như thả thoi, tạo nên không khí mùa xuân đầy ấm áp và thân mật. Hai từ 'đưa thoi' không chỉ gợi lên hình ảnh mùa xuân mà còn diễn đạt về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian. Phía sau đàn én đưa thoi là ánh sáng xuân, 'Thiều Quang', đã ngoài sáu mươi. Cách tả thời gian và vẻ đẹp xuân của thi sĩ rất thú vị, khi mùa xuân bước qua tháng ba với ánh sáng hồng ấm áp. Mảng xanh mơn mởn của cỏ non lan tỏa đến chân trời, còn sắc trắng tinh khôi của hoa lê. Chỉ với vài nét, sự pha trộn tài tình màu sắc tạo nên bức tranh xuân rực rỡ, mới mẻ và tràn đầy sức sống.
Tám câu thơ sau mô tả cảnh hội xuân:
'Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Chị em sắm sửa, bước xuân chơi
Dập dìu tài tử, giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm'
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh, dự lễ tảo mộ và sửa sang mộ người thân, hội đạp thanh (đi chơi xuân trên cánh đồng xanh). Từ 'lễ là.... hội là' tái hiện cảnh lễ hội dân gian diễn ra liên tục qua thời gian. Cảnh hội xuân đông đúc, sôi động, náo nhiệt. Trên mọi nẻo đường, những dòng người vui vẻ, tưng bừng hòa mình trong không khí hội xuân. Có biết bao yến anh náo nhiệt (ẩn dụ nam thanh và nữ tú). Niềm vui nô nức, hồ hởi, dục dã. Có biết bao tài tử, giai nhân dập dìu, nhịp bước hòa quyện. Dòng người hội xuân cuồn cuộn như nước, áo quần đẹp đẽ, tươi thắm, sắc màu nghìn nghịt. Tạo nên bức tranh xuân tươi mới, đầy sức sống với những hình ảnh so sánh 'như nước, như nêm'.
'Ngọn ngang đồi cao kéo lên
Thoi vàng bay như tấm trải tiền phất phơ'
Nguyễn Du kết nối đời sống tinh thần và phong tục truyền thống trong lễ tảo mộ. Trước những ngôi mộ, thả vàng và thoi bạc, rải giấy trắng, bày cỗ thắp nến, đốt nhang khấn vái, Nguyễn Du tận dụng để tạo ra một không gian linh thiêng, giao thoa tâm hồn giữa con người và đất trời.
Sáu câu thơ cuối ghi lại hình ảnh chị em Thuý Kiều trở về sau lễ tảo mộ. Mặt trời đã nghiêng gác sau núi. Ngày hội, ngày vui đã nhanh chóng trôi qua:
'Bóng tối dần về phương tây
Chị em thơ thẩn tay dang ra về'
Không gian ngày tan tác, sao đều vui vẻ. Nhịp thơ êm đềm, nhịp sống trôi như chẳng dừng lại. Tâm tình 'say đắm' cử chỉ 'vuốt nhẹ' nhịp chân 'bước nhẹ' một cái nhìn man mác sâu thẳm 'mỗi lần nhìn'. Đối với mọi cảnh vật, tất cả đều nhỏ bé nhưng khe suối chỉ là dòng suối nhỏ, phong cảnh dòng nước nao nao uốn quanh nhịp cầu nhỏ uốn quanh cối ghềnh. Cả không gian êm đềm, vắng lặng, tâm tình chị em Kiều như dịu dàng trong bóng tà dương như đang chờ đợi điều gì đó sẽ đến và sẽ nhìn thấy, nên cặp mắt cứ lần xem gần xa. Các từ láy tượng hình 'thanh thoát, nao nao, nhỏ bé' làm nổi bật sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan nỗi buồn man mác sâu sắc lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình đa cảm.
Bằng nghệ thuật mô tả thiên nhiên theo trình tự thời gian không gian kết hợp với miêu tả cảnh, tác giả thể hiện tâm trạng một cách tinh tế. Từ ngữ phong phú tạo nên nghệ thuật đối lập sử dụng từ ghép và từ láy. Đoạn thơ là bức tranh của mùa xuân, đẹp đẽ, khoáng đạt, tinh khôi, thanh khiết và mới mẻ, đầy sức sống. Cảnh lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt và tâm trạng xốn xang, náo nức của chị em Thuý Kiều khi tham gia hội, tâm trạng buồn lưu luyến, bâng khuâng khi trở về. Qua đây, ta thấy Nguyễn Du là người yêu thiên nhiên, hiểu lòng người và có tài khi mô tả. Đoạn thơ mang lại cho chúng ta cảm nhận về không khí mùa xuân, giúp ta thêm yêu thiên nhiên và quê hương.
""""-END""""--
Nhằm hỗ trợ các em trong việc hiểu và phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân, bài viết này không chỉ giới thiệu về cảm nhận của em về đoạn trích Cảnh ngày xuân mà còn cung cấp rất nhiều tài liệu học tập hữu ích khác như: Bức tranh mùa xuân qua 4 câu thơ đầu bài Cảnh ngày xuân, Phân tích cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về trong Cảnh ngày xuân, Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân, Cảm nhận về bốn câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.