Được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt là biểu tượng của tinh thần tự hào và sự tự tôn dân tộc. Em cảm nhận thế nào khi đọc tác phẩm này?
Đề bài: Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà
Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà
Mục Lục bài viết:
1. Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, mẫu số 1
Nam quốc sơn hà, bài thơ thể hiện tình yêu nước, hào khí mạnh mẽ, và oai hùng của thời đại...
Bài làm:
Nam quốc sơn hà đại diện cho kiệt tác văn chương thời Lí - Trần, là biểu tượng của hào khí và cảm xúc của đám đông. Tác phẩm này phản ánh tinh thần độc lập, khí phách anh hùng, và khát vọng lớn lao của dân tộc trong quá trình xây dựng quốc gia.
Sông núi nước Nam, một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Xem bài mẫu chi tiết TẠI ĐÂY.
2. Cảm nhận khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, phiên bản 2
Sông núi nước Nam hiển thị sức mạnh của quê hương, là biểu tượng rõ ràng của chủ quyền ghi chép trong truyền thống, một chân lý không thể thay đổi.
Bài thuyết minh:
Lí Thường Kiệt, một nhân vật nổi tiếng thời Lí, vừa là anh hùng trong trận chiến với quân Tống trên sông Như Nguyệt, vừa là một tác giả văn chương nổi tiếng. Tác phẩm của ông không chỉ kể về những chiến công nổi bật mà còn là tuyên ngôn độc lập bằng thơ văn, khẳng định chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta.
Tác phẩm mở đầu bằng một tuyên ngôn hùng hồn, thể hiện lòng dũng cảm đối với quân giặc
'Nam quốc sơn hà Nam đế cư'
(sông núi nước Nam vua ở)
Câu thơ đầu tiên khẳng định một sự thật bền vững 'sông núi nước Nam vua Nam ở' - một chân lý không thể thay đổi. Từ 'cư' không chỉ đơn thuần là ở mà còn nâng lên với ý nghĩa sâu sắc. Nó biểu thị quyền lực tối cao của vua Nam trên quê hương này. Việc có một vua đồng nghĩa với sự độc lập và chủ quyền, trách nhiệm của mỗi người dân Nam là giữ vững chủ quyền ấy. Đồng thời, biên giới nước Nam đã được thiết lập rõ ràng theo quy định của sách trời.
Xem mẫu chi tiết tại ĐÂY.
3. Nhận định sau khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, mẫu số 3
Viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, Sông núi nước Nam không chỉ là biểu tượng của chủ quyền mà còn là minh chứng cho sức mạnh của chính nghĩa dân tộc.
Điều bảo:
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, thời kỳ trung đại chứng kiến một bức tranh thơ văn phong phú, đậm chất hấp dẫn. Thơ trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm, đa dạng với nhiều thể thức như thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú... Bài thơ 'Sông núi nước Nam' sử dụng thể thất ngôn tứ tuyệt. Dù chỉ có bốn câu, nhưng ẩn sau đó là những ý nghĩa sâu sắc. Ngay từ câu đầu tiên, tác giả đã khẳng định:
'Nam quốc sơn hà Nam đế cư'
(Sông núi nước Nam vua Nam ở)
Câu thơ với hai vế 'Nam quốc sơn hà' và 'Nam đế cư'. Ở vế đầu, tác giả mô tả vẻ đẹp của giang sơn đất nước, trong khi ở vế sau, ông nhấn mạnh chủ quyền của giang sơn đó. Từ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh hùng vĩ của nước Nam, như một tác phẩm nghệ thuật sơn thuỷ huyền bí với núi non và dòng sông. Và chính vì vậy, chủ quyền của nó đã được xác định như một chân lý không thể chối cãi:
Xem mẫu chi tiết tại ĐÂY.
4. Nhận định sau khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, mẫu số 4
Bài thơ dù chỉ vỏn vẹn 4 câu, nhưng lại vang vọng như một tuyên ngôn hùng hồn, đanh thép về chủ quyền dân tộc.
Bài viết:
Trong những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, có nhiều trận đánh lớn ghi chép sử sách. Những trận đánh khiến kẻ thù khiếp sợ và là nỗi ám ảnh của mọi dân tộc muốn xâm chiếm Đại Việt. Một trong những 'trận đánh' đó được ghi nhớ vào chiều hôm ấy, chính là bài thơ 'Sông Núi nước Nam'.
Bài thơ như một lời khẳng định mạnh mẽ của quân và nhân dân trước ý đồ xâm lược của đối thủ. Được truyền đạt là do tướng quân Lý Thường Kiệt sáng tác, bài thơ là biểu tượng của lòng hào hùng dũng cảm.
Xem bài mẫu chi tiết TẠI ĐÂY.
5. Nhận định sau khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, mẫu số 5
Chấm dứt sự xâm lược, thể hiện sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, Nam quốc sơn hà còn phản ánh hình strắc đối với quân giặc nếu họ đe dọa chính nghĩa.
Bài viết:
Sau hàng nghìn năm chịu sự áp bức, nhân dân ta ao ước một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Hình dung niềm vui sẽ thêm lớn khi Đại Việt giành lại chủ quyền, đạt được tự do và độc lập. Lịch sử lưu danh điều này, và đến khi bài thơ Nam Quốc sơn hà xuất hiện, chúng ta mới có một tuyên ngôn chính thức về chủ quyền và ý chí tự lập của dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư
Bài thơ được cho là của tướng quân Lý Thường Kiệt, một con người lớn lao của Thăng Long. Tuy nhiên, vẫn còn nghi vấn về tác giả. Chắc chắn rằng nó ra đời trong thời điểm giao tranh giữa quân ta và đội quân Tống triều.
Xem bài mẫu chi tiết TẠI ĐÂY.
6. Ý kiến sau khi đọc bài thơ Nam quốc sơn hà, mẫu số 6
Bài viết:
Tình yêu quê hương và niềm tự hào về dân tộc là giá trị quý báu của người Việt Nam, dân tộc đã trải qua nhiều gian nan, khó khăn, và vượt qua mọi thử thách với tinh thần đoàn kết bất khuất. Bài thơ Nam Quốc Sơn hà (Sông núi nước Nam) của Lí Thường Kiệt là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời thể hiện tinh thần quốc gia.
Bài thơ ra đời trong những ngày chiến đấu chống lại quân Tống xâm lược, 'Sông núi nước Nam' trở thành biểu tượng của Đại Việt, tuyên ngôn sự độc lập và chủ quyền. Đây chính là giọng nói của những trái tim yêu nước, không ai có thể phủ nhận:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Câu thơ như lệnh tuyển của nhân dân Đại Việt. Vùng đất Nam là của người Nam, mặc dù nhỏ bé nhưng phải giữ chủ quyền thuộc về người Nam.
Chiêm ngưỡng bài viết đầy đủ tại ĐÂY.
https://Mytour.vn/cam-nhan-khi-doc-bai-tho-nam-quoc-son-ha-25465n.aspx
Thấu hiểu bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, bạn có thể khám phá thêm những cảm nhận đặc sắc về nhân vật Vũ Nương qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, suy ngẫm về bài thơ Thương Vợ, hoặc tận hưởng đoạn thơ đầu của bài Tây Tiến. Đồng thời, thêm vào đó là những cảm nhận sâu sắc về Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, và suy tư về truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy.