Đề bài: Anh/chị hãy diễn đạt Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên
1. Chi tiết về Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên
I. Tổ chức Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên (Chuẩn)
1. Bắt đầu:
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và phân tích 8 câu thơ cuối.
2. Phần thân bài:
* Tổng quan chung
- Đoạn trích “Trao duyên” thuộc phần II – Gia biến và lưu lạc, sau khi quyết định bán mình để chuộc cha, Kiều trao duyên cho Thúy Vân.
- Bốn câu thơ cuối thể hiện tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều sau khi trao duyên cho người em.
a. Cảm xúc tiếc nuối, xót xa vì tình yêu tan vỡ:
+ “Trâm vỡ gương, hạnh phúc tan thành mảnh vụn”.
+ “Tơ duyên ngắn ngủi”: Hạnh phúc ngắn ngủi, nở chóng tàn.
+ “Trăm nghìn lời cầu xin tình quân”: Hành động thể hiện lòng hối hận của nhân vật, mong muốn được tha thứ.
→ Thực tại đau khổ, bi kịch.
b. Kiều đau đớn và nhận thức về định mệnh của mình
- Những thành ngữ như “định mệnh như vôi”, “nước chảy hoa trôi” vẽ nên hình ảnh số phận khốc liệt, bạc bẽo của Thúy Kiều.
- Nàng hiểu rõ về số phận đau đớn, lênh đênh và dang dở của mình.
→ Quá khứ tràn đầy tình yêu thương, nhưng hiện tại lại là thực tế đau đớn, đau lòng.
c. Hối hận và đau đớn vì tình cảm với chàng Kim
- Tiếng gọi chàng Kim là “Kim Lang”: ngọt ngào, nhưng đồng thời cũng chứa đựng nỗi đau đớn, lòng tuyệt vọng.
- “Thôi thôi” như là sự kết thúc, không còn hy vọng, không còn gì để chờ đợi, phải đối diện với sự thật khắc nghiệt này.
- “Phụ chàng”: tự thừa nhận là người phụ bạc trong tình yêu.
→ Thể hiện sự hối hận, tận hưởng trong tâm trạng của Kiều.
d. Đánh giá chung
- Về nội dung: Tám câu thơ cuối trong đoạn trích đã thể hiện tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Kiều khi tình yêu tan vỡ và đồng thời là bức tranh tinh tế về nhân cách cao quý của nàng.
- Về nghệ thuật:
+ Bút pháp mô tả nội tâm tinh tế.
+ Sử dụng thành công các kỹ thuật nghệ thuật, các thành ngữ dân gian,… để diễn đạt nội tâm nhân vật.
Khẳng định giá trị của tám câu thơ và đoạn trích.
>> Xem chi tiết Dàn ý Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên tại đây.
II. Mẫu văn Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên
1. Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên, mẫu số 1 (Chuẩn)
Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều là minh chứng cho tài hoa của Nguyễn Du trong việc vẽ nên nội tâm phức tạp của nhân vật. Qua đoạn này, chúng ta hiểu rõ và cảm thông hơn về số phận thăng trầm, bất hạnh của Thuý Kiều. Tám câu thơ cuối là bức tranh cảm xúc, phản ánh sâu sắc nỗi đau đớn và tuyệt vọng trong trái tim Kiều.
Sau khi cậy nhờ em để thay thế 'duyên thừa' với Kim Trọng, Thúy Kiều trải qua nỗi đau và hóa trang lòng mình. Đó là sự tuyệt vọng, nỗi đau lên đến cực điểm khi phải từ bỏ mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.
'Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân'
Trạng ngữ chỉ thời gian 'bây giờ' làm nổi bật nỗi đau mà Kiều đang trải qua, đối mặt và chịu đựng. Đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình yêu tan vỡ, chữ tình không bao giờ phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không có cách nào hàn gắn được như 'trâm gãy gương tan'. Tác giả khéo léo sử dụng thành ngữ này để ám chỉ mối tình mong manh của Kim và Kiều.
Tình cảm của Kiều dành cho Kim ngày càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bấy nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang chịu đựng càng xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu không thể chắp vá được nữa, hy vọng kết nối mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn khi nhớ về những giây phút hạnh phúc 'muôn vàn ái ân' của hai người trước kia. Đó là những ký ức thắm thiết, những dấu vết đậm sâu mà cả Kim và Kiều giữ được. Những khoảnh khắc thăng trầm, thưởng thức ánh trăng vàng, hòa mình trong thơ ca và âm nhạc... Tất cả những niềm hạnh phúc lớn lao ngày nào giờ chỉ còn là quá khứ, tan biến vào hư vô khi tình yêu không thể còn nối kết.
Tiếc thương cho tình yêu chưa trọn vẹn, nghĩ về Kim Trọng, Kiều tự trách mình phụ bạc chàng, những lời than trách nghẹn lòng phát ra:
'Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi'
Suốt cuộc đời, Kiều qua từng đoạn thơ của Nguyễn Du là biểu tượng của lòng trung hiếu và tình nghĩa. Nàng chưa bao giờ phụ bạc ai, luôn hết lòng cho người mình yêu và tin tưởng. Nàng hi sinh hạnh phúc cá nhân để thực hiện chữ hiếu 'phận làm con trước phải đền ơn sinh thành'. Không còn lựa chọn nào khác, nàng đành đối mặt với sự chia lìa và hy sinh mối lương duyên tuyệt vời với Kim Trọng. Trong tâm hồn, Kiều luôn tràn đầy sự day dứt và tự trách mình vì cảm giác phản bội ước hẹn với Kim Trọng. Hành động 'trăm nghìn gửi lạy' kèm theo lời thanh thản, phê phán 'Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi' là cách Kiều tạ lỗi đầy xúc động và đau đớn dành cho Kim. Làm thế nào một người yêu thương và trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng đến vậy mà Kiều phải tự trách móc, lời dằn vặt bản thân đến như vậy?
Sau những lời than trách gửi đến Kim, Kiều tỏ ra uất hận với số phận của mình, nhìn nhận rằng cô là một người bạc bẽo. Tự ý thức về thân phận, Kiều hiểu rằng tương lai của cô không hứa hẹn là êm đẹp:
'Phận sao phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy hoa thôi lỡ làng'
Lời kêu than đầy uất ức về đau khổ thân phận là biểu hiện tự nhiên của sự xót xa trong tâm hồn Kiều. Câu 'bạc như vôi', 'nước chảy hoa trôi' là lời thở than, sự trách móc uất nghẹn của Kiều trước sự bất công của cuộc sống, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy cô vào bế tắc, khổ đau và tuyệt vọng. Chấp nhận 'đã đành' cho 'nước chảy hoa trôi' cũng là sự cam chịu, là biểu hiện của đức hi sinh của người con gái trước những khó khăn của cuộc sống. Và có thể đó là dấu hiệu của một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của Kiều.
Hai tiếng 'Kim Lang' đậm chất yêu thương, trân trọng, là cách mà Kiều dành cho Kim Trọng. Câu 'Kim Lang' kết hợp với thán từ 'Ôi', 'Hỡi' cùng với nhịp thơ 3/3 như là tiếng gào thét tâm hồn của Kiều. Mỗi tiếng thơ đều là một cảm xúc nghẹn ngào, đau đớn, đầy nước mắt, tô điểm cho sự thương tâm. Lời từ biệt cuối cùng của người con gái trung thành và tình cảm này mang theo nỗi luyến tiếc sâu sắc, đau đớn đến cùng:
'Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây'
Tám câu thơ cuối đoạn tuy không dài nhưng vẫn toát lên những phẩm chất tốt đẹp của Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, ý thức thân phận và trái tim hướng đến hạnh phúc sâu sắc. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo được Nguyễn Du gửi gắm rõ ràng, lên án xã hội phong kiến đầy bất công và thể hiện lòng thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều. Đồng thời, thành công về nghệ thuật được thấy rõ qua bút pháp miêu tả nội tâm tinh tế, sử dụng kết hợp thành ngữ dân gian và thể thơ lục bát. Tất cả tạo nên một đoạn thơ đầy ấn tượng và ý nghĩa.
Trao duyên, cũng như tám câu cuối đoạn, đóng góp lớn vào thành công của Truyện Kiều. Hy vọng rằng, trong tương lai, cả Trao duyên và Truyện Kiều sẽ giữ vững giá trị lâu dài, được thế hệ độc giả trân trọng và giữ gìn.
2. Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên, mẫu số 2 (Chuẩn)
Đại thi hào Nguyễn Du để lại di sản văn hóa lớn với kiệt tác Truyện Kiều, nơi giá trị hiện thực và nhân đạo toát lên qua từng câu thơ. Đoạn trích Trao duyên, đặc biệt là tám câu thơ cuối, như lời oán thán, tiếng thét của Thúy Kiều trước số phận.
Thuyết phục Thúy Vân đồng ý nhân duyên với Kim Trọng, Kiều chuyển giao kỉ vật và thổ lộ nội tâm. Tám câu thơ dẫn dắt người đọc qua tiếng than oán, lời từ biệt đau thương của Kiều với tình quân.
'Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang”
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tám câu thơ chứa đựng lời cảm thán, hình ảnh của Thúy Kiều, cô gái vẹn toàn nhưng số phận đẩy đưa đến bước 'đoạn trường', buông xuôi tất cả. Lời thơ đau đớn, chạm tới sự rung động của độc giả. 'Trâm gãy gương tan' ám chỉ mối tình tan vỡ, không thể hàn gắn, chia ly vĩnh viễn. Kiều chối bỏ tình cảm để trọn hiếu nghĩa với mẹ cha.
Với Kim Trọng, người 'tình quân', Thúy Kiều day dứt vì không thể trọn nghĩa phu thê. Nàng lạc quan tạ lỗi với Kim bằng 'trăm nghìn gửi lạy', chứng minh lòng trân trọng mối tình và sự bái biệt thiêng liêng.
Thúy Kiều không chấp nhận số phận mà lên tiếng oán trách. Hy sinh tình yêu để bảo vệ gia đình, nàng gọi Kim Trọng với tiếng 'Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang' da diết, đau đớn. 'Thôi thôi' là sự chấp nhận kết thúc tình yêu và đồng thời là lời tự trách của Kiều về sự phụ bạc.
Đoạn trích Trao duyên thể hiện Thúy Kiều không chỉ là hình tượng nghệ thuật mà còn là con người thực với tình cảm, nỗi đau và sự hy sinh. Nàng làm chúng ta suy nghĩ về cuộc đời và đồng cảm với số phận đắng cay của mình.
3. Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên, mẫu số 3 (Chuẩn)
Trong văn học trung đại, tấm lòng thương cảm cho số kiếp bạc bẽo ít khi được văn nhân quan tâm, nhưng Nguyễn Du đã vượt ra khỏi điều này. Truyện Kiều, kiệt tác của ông, không chỉ kể về số phận đau đớn mà còn lên án sự bất công xã hội. Ông có cái nhìn tinh tế về giá trị của phụ nữ và đặt ra những câu hỏi về bất công và đau đớn.
Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đẹp bởi sự xứng đôi, nền tảng của nó là tình tri kỷ và tự do trong tình yêu. Nguyễn Du đã đặt ra cái nhìn mới về tình yêu, không ràng buộc, không bị lệch lạc bởi quy tắc cũ. Đoạn trích Trao duyên thể hiện sự thông minh, quyết tâm của Thúy Kiều.
“Bây giờ trâm gãy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Thúy Kiều diễn đạt nỗi đau trong lời thơ 'Bây giờ trâm gãy bình tan', thể hiện tuyệt vọng trước sự chia ly không thể hàn gắn. Cô nhận ra sự khác biệt và sẵn sàng đối mặt với những thách thức. Câu thơ cuối cùng là lời tự trách và sự chấp nhận trận định của Kiều.
Khi đến câu thơ tiếp “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”, Thúy Kiều hồi tưởng về những kỷ niệm ngọt ngào với Kim Trọng. Những giây phút quý báu khi cùng nhau thưởng trăng, ngâm thơ nay trở thành ký ức tan vỡ, làm đau đớn lòng Kiều. Tình yêu đẹp đã biến thành quá khứ, còn lại chỉ là nỗi đau và sự hụt hẫng.
“Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi”
Câu thơ này thể hiện sự bất lực của Thúy Kiều trước sự kết thúc của mối tình đẹp nhưng ngắn ngủi. Lời than phiền về số phận bạc nhược và nước chảy hoa trôi lỡ làng là biểu hiện của sự chấp nhận đau đớn và sự thông minh của Kiều.
Khám phá nỗi đau thân phận và bày tỏ sự thông minh, Thúy Kiều than thở về cuộc sống đầy chông chênh. Câu thơ “Nước chảy hoa trôi” là tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, đầy những thách thức mà Kiều đang phải đối mặt.
'Hỡi Kim Lang! Ôi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ bây giờ'
Hai dòng thơ cuối cùng là lời tạm biệt của Thúy Kiều đầy xót xa, nói lên nỗi đau và tiếc nuối khi chia ly với Kim Trọng. Tiếng kêu khóc và lời từ biệt này chứa đựng cảm xúc sâu sắc, hình ảnh nước mắt nhuộm đầy từng chữ, tạo nên bức tranh đau lòng của Thúy Kiều.
Nhìn vào những dòng thơ cuối cùng của đoạn Truyện Kiều, chúng ta thấy hình ảnh một người con gái giàu có nhưng phải đối mặt với đau đớn cuộc đời. Thúy Kiều, người mang theo số phận khó khăn, buộc lòng phải từ bỏ tình yêu và thề ước. Những cảm xúc tuyệt vọng và bất lực hiện lên rõ nét, tạo nên bức tranh tủi nhục và khắc sâu trong tâm hồn người đọc.
4. Bài văn Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên, mẫu số 4 (Chuẩn)
“Truyện Kiều” - tác phẩm lừng danh của thi hào lớn Nguyễn Du đã thành công trong việc mô phỏng cuộc sống của Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng sống trong những sóng gió và khó khăn. Trích đoạn “Trao duyên” là minh chứng cho bi kịch của tình yêu, số phận không công bằng của Thúy Kiều và sự tài năng văn chương xuất sắc của Nguyễn Du khi vẽ lên tâm hồn và cuộc sống phức tạp của nhân vật. Sau khi “trao duyên”, Thúy Kiều lạc vào thế giới đau thương, nhớ về Kim Trọng và tình yêu dang dở. Bằng tám câu thơ cuối cùng, chúng ta cảm nhận được ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về thực tại và tình cảm thương tiếc, nuối tiếc dành cho Kim Trọng:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi chỉ còn đến thế!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ bây giờ!”
Sau khi trao đi kỉ vật của tình yêu, dặn dò Thúy Vân và đắm chìm trong dòng nội tâm sâu sắc, Kiều nhận ra bi kịch đau đớn của thực tại và chia sẻ tâm sự với Kim Trọng trong niềm tuyệt vọng. Nàng nhận thức rõ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Những thành ngữ như “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” đã diễn đạt sự vỡ tan, dở dang, bạc bẽo và trôi chảy của tình duyên và số phận con người:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
“Trâm gãy gương tan” - biểu tượng của số phận Thúy Kiều, tượng trưng cho tình duyên dang dở, đau khổ. “Phận bạc như vôi” thể hiện số phận mong manh, bạc bẽo. “Nước chảy hoa trôi” nhấn mạnh sự lênh đênh giữa sóng gió cuộc đời. Các câu thơ tạo nên bức tranh chung về số phận của phụ nữ phong kiến. Danh từ thời gian “Bây giờ” làm tăng vẻ đau lòng, đối lập giữa quá khứ êm đềm và tình yêu ngọt ngào với hiện tại tan vỡ. Kí ức “muôn vàn ái ân” lùi vào tiềm thức, chỉ còn lại nỗi đau và xót xa. Tác giả sử dụng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự tương phản giữa quá khứ hạnh phúc và hiện tại đau khổ, đẩy nàng vào bi kịch.
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”
Tác giả sử dụng số từ “trăm nghìn” để làm nổi bật sự lớn lao, vô hạn, so sánh với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường, bất lực. “Lạy” là hành động thể hiện niềm day dứt, trăn trở và đau đáu của Thúy Kiều. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” là cái lạy tạ lỗi, thể hiện niềm day dứt mặc cảm, mong nhận sự cảm thông của Kim Trọng, là lời tạm biệt đầy tức tưởi.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Trong lúc thổn thức, nàng Kiều rơi vào thế giới đau buồn của mình. Tiếng lòng vang lên như lời kêu thương, oán trách cuộc sống bất công. Nhịp thơ 3/3 bẻ gãy làm đôi, nói lên nỗi đau nức nở. 'Ôi', 'hỡi' nhắc lại tên Kim Trọng thể hiện tiếng lòng thổn thức. 'Thôi thôi' là lời sám hối đau đớn, thể hiện nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. 'Trao duyên' khám phá nỗi đau tình cảm của người con gái chung tình nhưng phải phụ tình. Tác giả Nguyễn Du tận dụng nỗi đau để chạm đến trái tim độc giả.
Thông qua tám câu thơ cuối của 'Trao duyên', chúng ta cảm nhận bi kịch tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh và đồng thời tận hưởng nghệ thuật tinh tế của 'Truyện Kiều' qua miêu tả tâm lý nhân vật và từ ngữ đặc sắc.
5. Cảm nhận về 8 câu thơ cuối trong bài Trao duyên, mẫu số 5 (Chuẩn)
Mối tình Kim - Kiều ngày đầu hứa hẹn đẹp, nhưng số phận buộc nàng phải bán thân để cứu cha em. Lời hẹn thề và vật đính ước, Kiều đau xót gửi cho em gái Thúy Vân. Tình cảm và lý trí xung đột, Kiều đau đớn và thương tâm. Đoạn trích 'Trao duyên' vẽ rõ tâm trạng của Kiều, khiến độc giả xót xa trước những lời thấu hiểu tâm can của nàng.
'Giờ đây, trâm gãy, gương tan,
Đoạn kia làm sao khắc muôn vàn ân ái.
...
Thôi thôi, thiếp đã làm tổn thương chàng từ đây.'
Lời thề nguyền từng đêm xưa giờ đây tan vỡ, tình yêu trải qua 'trâm gãy, gương tan'. Sự chia lìa khiến trái tim Kiều đau đớn, xót xa. Là phận gái, nặng lòng, Kiều buộc phải trao duyên cho em mình, một quyết định đau lòng khiến cõi lòng nàng tan nát. Mỗi lời thốt ra giống như lời ai oán, khóc than cho số phận và tình yêu của mình.
'Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi,
Phận sao, phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng.'
Những ngạn ngữ 'phận bạc như vôi', 'nước chảy hoa trôi' mô tả thân phận bi kịch của Kiều. Trong xã hội đen tối, tình yêu của nàng như tơ duyên 'ngắn ngủi'. Trước sự phũ phàng của số phận, nàng chẳng thể đấu tranh, đành chấp nhận 'Đã đánh nước chảy, hoa trôi lỡ làng'.
Thương nhớ những số phận lênh đênh của phụ nữ phong kiến, cuộc đời rơi vào vòng xoáy may mắn không do tự mình quyết định:
'Thân em như lá bần trôi,
Gió đánh, sóng dồn biết tấp vào đâu'.
Thúy Kiều tận hưởng bản thân như bông hoa giữa dòng nước, không định, nhỏ bé, mơ hồ giữa biển cả sóng nước. Bông hoa 'lỡ làng' tình duyên đẹp liệu có tới bến bờ hay mãi lênh đênh giữa dòng nước lớn.
Nghĩ càng sâu, lòng Kiều càng đau đớn, tâm can nàng nặng trĩu, thương mình một và thương Kim Trọng mười. Nàng nhận ra đã phụ lòng người tri âm, thổn thức thốt lên lời xin lỗi đẫm nước mắt:
'Kim Lang ơi! Hỡi Kim Lang,
Thôi thôi, thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Những thán từ ơi, hỡi, xen kẽ với tên Kim Lang nặng trĩu tình cảm, như là toàn bộ tâm huyết của Kiều dồn vào hai tiếng ấy. Kiều tự nhận lỗi, gọi mình là kẻ phụ bạc tình chàng Kim, đau đớn, cay đắng cuồn trào trong trái tim nàng:
'Thôi thôi, thiếp đã phủ chàng từ đây!'
Lời xin lỗi cuối cùng đau lòng, nghẹn ngào từ Kiều khiến lòng người xót thương. Trước mặt Kim, Kiều không đổ lỗi cho số phận hay hoàn cảnh, nàng tự chịu trách nhiệm, thể hiện tấm lòng chân thành. Kiều không còn nghĩ về đau đớn của mình mà tâm tư của nàng đổ hết cho Kim - người nàng vẫn thương yêu sâu sắc.
8 dòng thơ cuối cùng là nốt nhạc sâu lắng của đoạn trích. Mỗi đấng đọc thấy thương Kim Trọng một ít, thì lòng họ thêm thương Kiều bấy nhiêu. Ngoài ra, là sự cảm phục cho tâm hồn cao quý, lòng trung hiếu và tình thương của cô gái ấy.
"""--HẾT"""---
'Truyện Kiều' là kiệt tác văn học trung đại nổi tiếng, ghi dấu sâu trong văn hóa Việt, với giá trị nhân đạo cao. Tác phẩm tập trung ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng nhân ái, thấu hiểu số phận bất công. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm, hãy tham khảo các bài văn mẫu lớp 10 như: Phân tích đoạn trích Trao duyên, Cảm nhận về đoạn Trao duyên, Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên, Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên. Chúc các bạn học tốt.