Cảm nhận Tràng Giang của Huy Cận cung cấp 2 dàn ý và 10 mẫu văn hay, giúp học sinh lớp 11 tự học và nâng cao kĩ năng văn cảm nhận, đánh giá bài thơ một cách tốt hơn.
Tràng Giang, bài thơ nổi tiếng của Huy Cận được học trong chương trình Ngữ Văn 11 và Ngữ Văn 10. 10 mẫu cảm nhận Tràng Giang dưới đây cung cấp bài làm ngắn và đầy đủ để học sinh tham khảo, giúp chuẩn bị tốt hơn cho môn Ngữ Văn.
Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng Giang
I. Mở Đầu
1. Tác giả:
- Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới
- Tràng Giang được lấy từ tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)
2. Nội dung phân tích: Bài thơ là biểu hiện của cảm xúc cô đơn trước vũ trụ bao la, trước cuộc sống phức tạp
II. Thân bài:
1, Tóm tắt:
a, Bối cảnh sáng tạo: Trích từ tập thơ đầu tiên “Lửa thiêng” (1939)
- Cảm xúc tạo ra: Bắt nguồn từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng một mình tại bờ Nam bến Chèm, ngắm nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước
b, Tiêu đề:
- Phương thức âm nhạc “ang” hình dung hình ảnh con sông lớn, rộng lớn
- Là một từ Hán Việt cổ, nên hình dung con sông có niên đại lâu đời, uy nghi.
c, Đề từ:
- Tóm lược nội dung của cả bài thơ
- Các hình ảnh “bầu trời rộng lớn”, “dòng sông dài” mở ra những không gian, phạm vi khác nhau
- Tâm trạng của nhà thơ: nỗi buồn nhẹ nhàng, mang tia hy vọng
=>Mang tính hướng dẫn và kết hợp giữa cổ điển và hiện đại
2, Thông tin chi tiết:
a, Bài thơ mở đầu với hình ảnh dòng sông đầy nước chảy, thể hiện nỗi lòng đau đớn của nhân loại (Trích từ 4 câu thơ đầu)
- Đoạn 1:
- Mô tả sự chuyển động tinh tế, nhẹ nhàng của sóng
- Từ ngữ “điệp điệp” làm nổi bật nỗi buồn, sâu sắc và xô bồ
- Trên dòng sông Tràng Giang mênh mông, xuất hiện hình ảnh một chiếc thuyền cô đơn, trôi lững lờ
- Cụm từ “thuyền về nước lại” gợi lên cảm giác sự tách biệt, xa lạ.
- Cụm từ “sầu trăm ngả”: nỗi buồn không định hướng, trải rộng khắp không gian
- Đoạn 4:
- Hình ảnh “cành củi khô” kích thích cảm giác cô đơn, nhỏ bé và tạm thời. Sử dụng từ “một” để thể hiện sự ít ỏi, “cành khô” để biểu hiện sự khô héo, “lạc” để diễn đạt nỗi buồn không hướng, không điểm
=>Cảm nhận nhạy bén về thiên nhiên sông nước, qua đó thể hiện nỗi niềm và tâm trạng của nhà thơ
b, Phần 2: Huy Cận như minh họa thêm cảnh qua một cái nhìn toàn diện hơn (trích từ 4 câu thơ)
- Đoạn 1,2:
- Từ “lơ thơ” kết hợp với biện pháp đảo ngữ: nhấn mạnh về sự rộng lớn, trống trải của cảnh vật trên cồn cát
- Từ “đìu hiu”: tác giả rút ra từ câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm) -> tái hiện lại không khí trống trải, cô đơn của thơ xưa
- Từ “đâu” có thể hiểu là không có hoặc đâu đó. Nhưng nếu hiểu theo cách nào thì âm thanh nhỏ nhẹ-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mong manh, mờ nhạt
- Đoạn 3,4
- Huy Cận đã thể hiện được sự động đậy, mở rộng mọi phía của không gian
- Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở rộng theo ba chiều: dài, rộng, cao
=>Đó là cảm giác lạc lõng, bơ vơ, nhớ nhà giữa bao la thiên nhiên, dòng sông dài
c, Phần 3: Nỗi buồn của cảnh vật kết nối với nỗi đau của con người (trích từ bài thơ)
- Đoạn 1,2
- Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: biểu hiện sự bất định, lênh đênh của cuộc đời
- Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên liên tục, không có dấu vết của con người
- Đoạn 3,4
+ Sự phủ định bằng cấu trúc “không….. không” phủ nhận toàn bộ mối kết nối của con người
=>Trước mặt nhà thơ giờ đây không còn điểm tựa để giảm bớt nỗi cô đơn đang chi phối
d, Phần 4: Nỗi cô đơn được thể hiện rõ với những hình ảnh tương phản (trích từ bài thơ)
- Đoạn 1,2
- Kỹ thuật chấm phá: mô tả hình ảnh những đám mây trắng được ánh nắng chiếu sáng như mặt bạc
- Câu thứ 2 có thể hiểu theo hai cách: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều sa xuống sông Tràng Giang hoặc bóng chiều đè nặng lên cánh chim khiến chim nghiêng lệch
- Đoạn 3,4:
- Từ ngữ “dợn dợn”: biểu hiện nỗi cô đơn, lạc lõng
- 2 từ “nhớ nhà”: gợi lên hình ảnh một người xa quê, lẻ loi, đứng trên bờ sông Tràng Giang
- Huy Cận không cần phải nhìn thấy khói hoàng hôn cũng nhớ nhà vì nỗi nhớ không phụ thuộc vào bên ngoài mà đến từ tâm hồn
=>Nét tâm trạng chung của các nhà thơ thời đó
3, Đánh giá:
a, Nghệ thuật:
- Sử dụng các vật liệu, tình tiết gần gũi với cuộc sống hàng ngày
- Kỹ thuật chấm phá, tận dụng cảnh vật để thể hiện tâm trạng một cách linh hoạt
- Tiếp thu và đem lại sự mới mẻ cho thể loại thơ cổ điển
b, Chủ đề:
- Nỗi lòng buồn thương, cô đơn của tác giả khi đối mặt với quê hương đã không còn
- Khát khao tìm kiếm sự ấm áp của con người, nhưng chỉ nhận được thất vọng và cô đơn
- Bày tỏ sâu sắc tình yêu quê hương
III, Kết luận:
- Tóm tắt lại vấn đề được đề cập
- Phê phán ý kiến cá nhân
Phản ánh về bài thơ Tràng Giang - Mẫu 1
Cuộc sống không tránh khỏi những khoảnh khắc lang thang tìm kiếm nơi yên bình để sâu lắng tâm hồn. Những khoảnh khắc đó, con người cảm thấy mình nhỏ bé trước vẻ đẹp mênh mông của không gian, vũ trụ rộng lớn. Bất giác, họ nhận ra cuộc đời quá ngắn ngủi, không đáng giá, và con người không có gì trước vạn vật. Đọc bài thơ “Tràng Giang' của Huy Cận, tôi lại cảm nhận được nỗi buồn lạc lõng khi suy tư về những cuộc đời lênh đênh, trôi nổi.
Bài thơ “Tràng Giang” ra đời vào năm 1939 với tâm trạng u sầu của Huy Cận, chứa đựng nhiều phiền não và suy tư. Từ ngữ trong bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi đau của thi sĩ trước thời đại và tâm trạng của tác giả trong quá trình tìm kiếm “Thơ mới'.
Tên bài thơ “Tràng Giang' tạo ra một ấn tượng sâu sắc về một con sông dài, mênh mông. Tựa đề cũng khiến người đọc cảm thấy hoài niệm khi thi sĩ sử dụng từ ngữ từ Hán Việt. Nhiều người đã cố gắng thay đổi tên bài thơ thành “Trường Giang' nhưng tôi tin rằng tên gốc vẫn là chính xác nhất vì khi dùng từ “Trường Giang', chỉ thể hiện được chiều dài của con sông. Nhưng khi sử dụng “Tràng Giang', con sông không chỉ là dài mà còn là rộng. Sông trở nên mênh mông, bao la hơn, từ đó diễn đạt được ý tưởng của tác giả về sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người nhỏ bé. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài'. Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.
Khổ thơ đầu tiên không chỉ truyền đạt bức tranh buồn, cô đơn mà còn khơi dậy cảm giác chia lìa, tách rời từ thiên nhiên
“Trong làn sóng của sông Tràng Giang, buồn lặng lẽ
Chiếc thuyền trôi theo dòng nước mà mái chèo không vẫn vẹn
Khi thuyền quay về bến, nỗi buồn đa chiều lại tràn đầy
Một cành cây khô đơn côi, lạc lõng giữa những dòng nước.”
Với những câu thơ đầu tiên, tác giả tạo dựng nên nhiều hình ảnh như sóng, thuyền, cây khô. Sóng liên quan chặt chẽ với động từ “gợn' - di chuyển nhẹ nhàng, mịt mùng trải dài. Chỉ với một nét gợn nhẹ nhàng đó đã đủ khiến nhân vật trữ tình trở nên buồn rầu. Từ “điệp điệp' miêu tả nỗi buồn đan xen, liên tục. Nỗi buồn không chỉ xuất hiện một lần mà nó còn kéo dài mãi, không biết kết thúc. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện “chiếc thuyền trôi theo dòng' – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên âm thanh sóng vỗ vào thuyền nhưng chỉ thấy một chiếc thuyền buông xuôi, lênh đênh trên dòng nước. Câu thơ còn độc đáo trong việc mô tả sự tách biệt giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà còn làm rõ hình ảnh sự chia cắt.
“Khi thuyền quay về bến, nỗi buồn của nước lại tràn ngập' có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Thứ nhất, khi thuyền trở về, nỗi buồn của nước càng trở nên mạnh mẽ gấp đôi. Cách hiểu thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia ly khi thuyền và nước trôi ngược chiều. Khi thuyền trở về, nước ở lại với dòng sông và nỗi buồn không chỉ trải qua một nơi mà là nhiều chốn. Phép đối được sử dụng thành công để diễn đạt sự chia rẽ này. Cuối cùng, Huy Cận mang đến một hình ảnh đậm chất cô đơn - “cây khô'. Tính chất của hình ảnh này là “khô' – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành cây khô' – “nhiều dòng nước” càng nhấn mạnh sự đơn độc, bóng tối của cây khô giữa những dòng nước. Động từ “lạc' đã nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của cây khô nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng' thì càng làm rõ hơn nỗi đau, sự mất mát của cây khô. Mặc dù chỉ với một khổ thơ nhưng tâm trạng mà nó mang lại đã rất buồn rầu.
Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở ra hơn.
“Trên những cồn nhỏ, gió lay động mạnh mẽ
Tiếng làng xa xa vọng về từ đầu chiếc thuyền
Nắng mặt trời chiếu sâu, xa, mãi mãi
Sông Tràng Giang mênh mông, bến cô đơn.”
Hình ảnh “cồn nhỏ' thể hiện không gian trống trải, cô đơn. Tính từ “nhỏ' làm tăng thêm cảm giác nhỏ bé, cô đơn khi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn bã mà còn lạnh lẽo. Gió mang cảm giác buồn bã, u uất như nhấn mạnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều' có thể là một câu hỏi về vị trí của “tiếng làng xa', chờ đợi tiếng họp buổi chiều tà. Nhưng “đâu' cũng là từ phủ định, đề cập đến việc không có tiếng nói của những người họp chợ. Tất cả chỉ còn lại là một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.
Không gian trong khổ thơ thứ hai mở ra chiều cao, chiều dài và đặc biệt là chiều sâu của vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống trời lên' giúp mở rộng không gian theo chiều cao. Nắng chiếu xuống đâu, bầu trời cao đến đó. Câu thơ cuối cùng với “sông dài trời rộng' và “bến cô liêu' tô đậm nỗi cô đơn, u sầu khi nghĩ về kiếp người trôi nổi.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Trong không gian mênh mông không có đò qua lại
Không có điều gì gợi nhớ mối thân thiết
Bờ xanh yên bình nối liền bãi cát vàng.”
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng' kể về sự lạc lõng của sinh vật này. “Hàng nối hàng' như thể hiện số phận chìm nổi của chúng. “Không có đò' và “không cầu' thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng. Cuối cùng, màu xanh và vàng được kết hợp nhưng từ láy “lặng lẽ” lại tô vẽ bức tranh cô đơn.
Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên nhưng ở khổ thơ cuối, ông bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương.
“Tầng tầng mây cao phủ núi bạc
Chim nghiêng cánh mỏi dưới bóng chiều xa
Tâm hồn quê hương dợn dợn theo dòng nước
Khói hoàng hôn nhẹ nhàng mang về hồi ức nhà cũ”
Chỉ với bốn câu thơ, tác giả kết hợp tinh tế giữa cổ điển và hiện đại. Từ láy hoàn toàn “tầng tầng” để diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. Câu thơ đầu tiên tạo hình ảnh mây lớp lớp phủ lên những đỉnh núi bạc. Câu tiếp theo sử dụng thủ pháp cổ điển để diễn tả sự cô đơn của chim trước “bóng chiều xa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh mỏi” không chỉ gợi sự cô đơn mà còn nói về trạng thái không cân bằng của nó trước bóng chiều xa. Trong không gian buồn bã đó, tác giả bất chợt nhớ về quê hương.
“Tâm hồn quê hương dợn dợn theo dòng nước”
Tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để miêu tả tình cảm lẻ loi, buồn bã của chim trước cảnh hoàng hôn xa xăm. Tâm trạng cô đơn của con người được thể hiện qua hình ảnh chim mỏi mệt dưới ánh chiều tà. Câu cuối cùng với từ láy “dợn dợn” và “nhẹ nhàng” tạo ra bức tranh nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa về kí ức quê hương.
“Khói hoàng hôn nhẹ nhàng mang về kí ức nhà cũ”
“Dợn dợn' là khơi gợi, làm trỗi dậy những cảm xúc khó diễn đạt. Chỉ cần nhìn thấy “con nước” là trái tim thi sĩ đã gợi lại ký ức về quê hương - nỗi nhớ vốn dĩ luôn hiện hữu. Trong các câu thơ trước, phải có một hình ảnh, một chi tiết về quê nhà để thi sĩ có thể thể hiện cảm xúc của mình, nhưng trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà' thì nỗi nhớ vẫn dâng trào mà không cần bất cứ hình ảnh nào. Cách Thôi Hiệu và Huy Cận nhìn nhận nỗi nhớ quê hương cũng phản ánh sự đặc biệt trong cách tâm trạng họ đối diện với kí ức về quê nhà.
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
Thôi Hiệu thấy khói sóng và nhớ về quê hương, còn Huy Cận, nỗi nhớ ấy vẫn dâng trào mặc cho nơi chân trời là quê nhà của ông. Điều này phản ánh sự đặc biệt trong cách mà hai nhà thơ này trải nghiệm và thể hiện nỗi nhớ về quê hương.
Nhà thơ Huy Cận đã kết hợp một cách mềm mại giữa truyền thống Đường thi và hiện đại Thơ mới, sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, thủ pháp tương phản... để tạo nên một bức tranh sâu lắng về thiên nhiên mênh mông. Tác phẩm của ông không chỉ tạo ra sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ mênh mông mà còn thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước của một người con.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang - Mẫu 2
Tràng Giang là một trong những bài thơ đặc sắc của Huy Cận, thể hiện rõ tâm hồn của ông. Ông đã chia sẻ về quá trình sáng tác của bài thơ này, lấy cảm hứng từ phong cảnh sông nước ở Chèm Vẽ ngoại ô Hà Nội. Mặc dù nơi này hiện nay đã phát triển thành khu đô thị đông đúc, nhưng vào thời điểm ông viết, đó là một vùng đất vắng vẻ, yên bình, đẹp và buồn như trong bài thơ đã mô tả.
Huy Cận đã sử dụng nhiều thể thơ khác nhau nhưng sau cùng chọn thơ bảy chữ, mang nét Đường thi. Ông cũng lấy cảm hứng từ thơ Đỗ Phủ và Tản Đà để thể hiện nỗi buồn của mình, kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'. Điều này giúp tạo ra sự cộng hưởng cảm xúc trong bài thơ.
Bài thơ Tràng Giang kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và nỗi buồn sâu sắc, đưa người đọc từ bầu trời mênh mông xuống tận đáy lòng. Nỗi buồn không rõ nguyên nhân nhưng đầy cảm xúc đã thấm vào từng đoạn văn của tác phẩm, tạo ra một không gian buồn bàng và lãng mạn.
Từ “Tràng' trong bài thơ không phổ biến trong ngôn ngữ hàng ngày nhưng ông chọn sử dụng để không bị nhầm lẫn với sông Trường Giang ở Trung Quốc. Tuy nhiên, từ này cũng giúp tạo ra hình ảnh rộng lớn và sâu thẳm hơn trong bài thơ của ông.
Một cành củi khô lẻ loi giữa dòng nước.
Trên dòng sông Hồng, đặc biệt là trong mùa lũ, có thể nhìn thấy những cành cây trôi nổi, thân gỗ lênh đênh trong nước phù sa đục. Cảnh này thường gợi lên cảm giác tang thương. Tuy nhiên, trong bài thơ này, Huy Cận không chọn cảm xúc đó. Ông muốn chọn hình ảnh để thể hiện thân phận của con người trong cuộc đời. Việc chọn một cành củi khô hơn là những cây xanh tươi mát, và việc nó lẻ loi giữa dòng nước càng khiến nó trở nên quý giá hơn, cộng với việc nó kết hợp với cảm giác sầu thương của người viết.
Phần đầu của bài thơ tập trung vào mặt sông, mô tả chi tiết và sử dụng ngôn ngữ phong phú để tạo ra hình ảnh chân thực. Phần sau mở ra quang cảnh xa xôi xung quanh: những cồn đá nhỏ, ngôi làng xa xôi, bầu trời cao và bến cảng rộng lớn... không gian mở ra rất rộng và cao, tạo điều kiện cho tâm hồn người đọc thấm vào không gian vắng vẻ và yên bình. Một tiếng vang xa, mơ hồ như một ký ức về một phiên chợ quê lúc buổi chiều vắng người. Âm thanh mơ hồ này là cách biểu đạt sự tĩnh lặng. Phần này của bài thơ mở rộng không gian, từ chiều dọc thẳng đến khi mặt trời lặn, trời cao vút lên:
“Nắng trải dài, trời xanh thẳm chót vót”.
Từ “chót vót” thay vì “cao” là một sáng tạo đặc biệt, tạo ra ấn tượng sâu sắc. Khi chiều nằm ngang, “Sông dài, bầu trời rộng, bến cảng lẻ loi'… Không màu sắc, không âm thanh, không sự hoạt động. Mọi thứ đều trầm lặng, đi vào trạng thái tĩnh lặng, thấm vào nỗi cô đơn.
Cảnh rộng vô tận, miên man mênh mông. Huy Cận chuyển sự tập trung trở lại đối với sông, đến điểm xuất phát của bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Mức độ yên lặng tăng lên đến mức không có dấu vết của con người. Hai đoạn trước còn có thuyền, còn có chợ. Nhưng bây giờ, trên sông chỉ còn bèo, chỉ một loại bèo, hàng nối hàng. Không có thuyền chèo ngang, không cầu, không một công trình nào mang dấu vết của loài người, chỉ có sự yên bình của thiên nhiên với thiên nhiên. Nỗi buồn lấn át toàn bộ cảnh vật. Nỗi buồn lan tỏa xa xăm “Bờ xanh im lìm tiếp bãi vàng”. Sau đó, nỗi buồn bay lên cao “Nhiều lớp mây cao đùn thành núi bạc'. Nỗi nhớ quê, lòng quê mới trỗi dậy ở nơi cảnh vật không có dấu vết của con người, khiến lòng người nổi lên nhớ về quê hương, nhớ về gia đình ấm áp.
Bài thơ kết thúc trong nỗi nhớ nhà. Sự logic trong những bước chuyển của tâm hồn được đánh giá cao trong bài thơ này. Có lẽ vì thế mà Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là một bài thơ về tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.
Cảm nhận Tràng giang học sinh xuất sắc - Mẫu 3
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ mới, và thơ của ông nổi bật trong dòng Thơ Mới với nỗi buồn sâu sắc, khắc khoải, phản ánh nỗi đau của một cá nhân sâu sắc, tư duy về cuộc sống và con người. “Tràng giang” (trích từ tập thơ “Lửa thiêng”) là một ví dụ điển hình, thể hiện rõ phong cách thơ của Huy Cận, trong đó mỗi khổ thơ đều chứa đựng nỗi buồn cay đắng. Bằng cách đặt con người nhỏ bé giữa vũ trụ lớn lao, Huy Cận đã thành công trong việc thể hiện nỗi cô đơn, sự cô lập, lạc lõng của con người giữa cuộc sống đầy rẫy biến động.
Mở đầu bài thơ là những câu thơ mang đậm phong cách cổ điển, giàu hình ảnh và nhạc điệu, từ việc sử dụng từ ngữ và cách kết hợp âm vần đã tạo ra âm điệu cho toàn bộ khổ thơ:
“Sóng dập trên Tràng Giang, buồn quanh co,”
“Thuyền lướt nhẹ trên nước, bên bờ song song,”
“Thuyền về bến lại mang theo nỗi buồn thất lạc,”
“Cành khô trôi mất trong dòng nước.”
“Tràng Giang” không chỉ nói về một dòng sông dài và rộng mà còn mô tả sống động những con sóng trên sông. Cảm nhận sức mạnh gợi cảm từ câu thơ “Sóng dập trên Tràng Giang, buồn quanh co,” những con sóng giống như những nỗi buồn của thi sĩ, nỗi buồn không ngừng mở rộng, triền miên theo không gian và thời gian. Hình ảnh thuyền nhẹ nhàng trôi, chịu đựng sức nước đẩy đưa, gợi lên sự lênh đênh của cuộc sống và nỗi buồn chia ly khi thuyền trở về bến. “Tràng Giang” mang tính hiện đại khi xuất hiện hình ảnh tầm thường như “cành khô trôi mất,” tầm thường, nhỏ bé, thể hiện nỗi buồn về một cuộc đời tầm thường. Nỗi buồn càng sâu khi cảnh vật càng hoang tàn, quạnh hiu:
“Cồn nhỏ trống vắng, gió đơn côi,
Tiếng làng xa xa vọng tiếng chợ chiều.
Nắng chiếu xuống, trời cao, bí ẩn;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn được gợi lên bởi từ “trống vắng,” “đơn côi,” với không gian vắng vẻ xung quanh, tiếng vọng xa của chợ chiều, nơi đã thưa thớt, không nhộn nhịp như chợ sáng. Hai câu thơ mở ra một không gian mênh mông, cao sâu, rộng lớn “trời cao, bí ẩn,” nhưng giữa vẻ mênh mông của vũ trụ, chỉ có “bến cô liêu,” tạo ra sự cô đơn không chỉ của bến đò mà còn của con người, như một người bé nhỏ bị choáng ngợp giữa bao la đất trời.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không đò nào chuyển ngang qua
Không có gì gợi lên niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Tiếp tục nối tiếp cảm xúc từ hai khổ thơ đầu, nỗi buồn vẫn đọng sâu trong hình ảnh bèo dạt trôi, tạo ra cảm giác chia ly và tuyệt vọng. Trời mênh mông nhưng không có dấu vết con người, không có chuyến đò ngang, không có cây cầu nối kết. Chỉ có thiên nhiên với bờ xanh và bãi vàng, nối tiếp nhau, tạo nên nỗi buồn không chỉ trước cảnh đẹp tự nhiên mà còn về nhân sinh, cuộc sống.
Mây cao đầy trời, chim nhỏ nghiêng cánh: một cảnh chiều tà dễ thương. Tình quê hương dường như lan tỏa qua con nước, kỷ niệm nhà cũng tựa như một bức tranh nho nhỏ trong lòng.
Trời thu với những đám mây trắng, mặt trời chiếu lên chúng, biến chúng thành những ngọn núi bạc trắng. Thế nhưng giữa cảnh đẹp đó vẫn là nỗi buồn sâu thẳm, hình ảnh cánh chim nhỏ lẻ bóng trong bóng chiều tà, khiến lòng người càng nhớ nhà và quê hương. Những cảnh đẹp thiên nhiên càng tăng thêm nỗi buồn, khiến cho tâm trạng trở nên lặng lẽ và đầy cảm xúc.
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận không ngừng triển khai nỗi buồn vô tận của một tâm hồn cô đơn giữa bao la thiên nhiên. Bài thơ mới mở ra một khía cạnh mới, thể hiện rõ nỗi buồn về cuộc sống và tình yêu quê hương.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận - Mẫu số 4
Huy Cận là một nhà thơ tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và con người. Ông thường viết về sự hăng say lao động và ý nghĩa của việc đóng góp cho xã hội. Mặc dù thể hiện nét sôi nổi và hạnh phúc trong những tác phẩm như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời, ... nhưng cũng có những lúc ông cảm thấy cô đơn và buồn bã trong đất khách quê người, điều này hiếm khi được thấy trong các tác phẩm của ông. Nỗi nhớ quê hương, nhớ mẹ cùng với cảm giác cô đơn và buồn bã được ông thể hiện trong bài thơ Tràng Giang, viết vào năm 1939. Đứng trước bức tranh mênh mông của sông nước, ông cảm thấy mình nhỏ bé và cô đơn, điều này kích thích nỗi nhớ quê hương và tình mẹ da diết.
Ta cảm nhận được tâm trạng buồn bã sâu thẳm của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên trong khổ thơ đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Các từ như 'song song', 'điệp điệp' gợi lên không gian bao la và u ám của sông nước. Trong không gian tối tăm đó, chỉ có một chiếc thuyền đơn côi, không định hình và bị cuốn trôi bởi dòng nước, tương tự như tâm trạng của nhà thơ lúc đó. Sự động của các vật thể diễn ra trong im lặng, như thể chúng bất lực và tuyệt vọng trước cuộc sống. Hình ảnh 'Thuyền về nước lại' nghe thật đau lòng! Thuyền và nước thường đi đôi với nhau, nhưng ở đây Huy Cận đã tạo ra sự chia rẽ giữa thuyền và nước, gợi lên nỗi buồn sâu thẳm 'trăm ngả'... Không có gì đau lòng hơn nữa. Câu thơ cuối cùng của khổ thơ thứ nhất là biểu tượng đặc biệt với hai vần: 'Chỉ một cành khô – không nhiều dòng'. Sự cô đơn được thể hiện rõ qua chữ 'một', chỉ có một cành khô lẻ bóng, cũng như chỉ có một chiếc thuyền duy nhất. Tâm trạng buồn bã của nhà thơ được nâng lên cao trào, khi xung quanh các vật thể cũng đều cô đơn, mất hút.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục tình cảm cô đơn của tác giả, nhưng có phần rõ ràng hơn:
“Gió nhẹ thổi nhẹ trên cồn nhỏ
Tiếng làng xa xa vọng về buổi chiều.”
Trong khổ thơ đầu, chỉ thấy thiên nhiên nhưng câu thơ này đã đưa ra hình ảnh con người. Tuy nhiên, con người được miêu tả trong trạng thái chán nản, âm thanh vọng về từ chợ chiều xa xôi. Một ngôi làng gần đây đang chuẩn bị kết thúc phiên chợ của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vọng về từ chợ đã dần tắt dần. Sự hiện diện của con người không làm cho bức tranh trở nên sáng sủa hơn, mà ngược lại, nó thể hiện sự buồn bã, cô đơn của tác giả khi thấy sự đổi thay của chợ và tâm trạng của mình không còn như ngày xưa. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả thiên nhiên một cách đặc biệt:
“Nắng tắt, bầu trời lên sâu tối thăm,
Dòng sông dài, bầu trời rộng lớn, bến cô liêu.”
Hình ảnh đối lập: “Nắng tắt – bầu trời lên” thể hiện sự thay đổi không ngừng của cuộc sống. Ánh nắng chói chang đã nhường chỗ cho bóng tối bao phủ. Cụm từ “bầu trời lên sâu tối thăm” là một biểu tượng độc đáo, vì từ “tối thăm” thường được sử dụng để miêu tả sự tối tăm, nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả sự rộng lớn, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh to lớn với sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. Khổ thơ tiếp theo vẫn là sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Nhà thơ tiếp tục dùng hình ảnh của bèo trôi, thuyền và cành củi khô để miêu tả sự lênh đênh, trôi nổi không biết đi đâu. Bên bờ sông trơ trọi, không có đò để đón khách, không có cầu bắc nhịp, chỉ còn bờ bãi rộng lớn. Một bức tranh thực tế buồn buồn nhưng nỗi cô đơn của tác giả như muốn thoát ra khỏi đó, để có cuộc sống tươi đẹp hơn, vui vẻ hơn.
Khổ thơ cuối là tình cảm nhớ nhà của tác giả:
“Đám mây lớp lớp cao đùn núi bạc
Con chim nghiêng cánh nhỏ bay trong bóng chiều
Tâm trạng quê hương nhấp nhô với dòng nước
Không có hoàng hôn nhưng vẫn nhớ nhà”.
Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận đã tạo ra một bức tranh với đám mây lớp lớp, cao ngất ngưởng trên đỉnh núi cao chót vót, cùng với đó là hình ảnh con chim nhỏ bay trong bóng chiều tìm về tổ để sum họp với gia đình. Khi nhìn thấy những hình ảnh này trong những câu thơ đầu, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn sâu thẳm trong lòng người nhưng phải đến khi thấy hình ảnh cánh chim, Huy Cận mới tỏ ra rõ nét nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đất nước. Ta cảm nhận được tình yêu thương, gần gũi của nhà thơ với nhân dân, quê hương, đất nước. Dù đang sống ở đâu thì trong lòng người con xa xứ vẫn nhớ nhung từng bóng hình của người thân.
Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã thể hiện tâm trạng của mình qua từng cảnh trong bài thơ, để lộ nỗi buồn thương và nhớ nhà tha thiết. Khi đọc bài thơ, ta thấy được một khía cạnh mới trong thơ Huy Cận, ông không chỉ viết về sự hồ hởi, tươi vui mà còn đầy cảm xúc, cảm động khi nói về nỗi buồn. Bài thơ 'Tràng Giang' của Huy Cận là nỗi buồn triền miên, vô tận của một 'cái tôi' cô đơn giữa thiên nhiên rộng lớn. Bài thơ không chỉ khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc sống của nhà thơ, mà còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê hương, đất nước.
Cảm nhận bài thơ Tràng Giang - Phiên bản 5
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ của ông rất giàu suy tư, triết lí, luôn thể hiện sự kết nối giữa con người và vũ trụ. Bài thơ Tràng Giang là một ví dụ tiêu biểu của ông, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của ông.
Ngay từ câu đề của bài thơ, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật và tâm trạng của thi sĩ. Lời đề từ đã tóm tắt ngắn gọn và chính xác cảnh vật cũng như tình cảm trong bài thơ.
Sóng gợn trên Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền trôi trên dòng nước điều đều
Thuyền quay về bờ lại buồn đẫm ngả
Một cành củi lạc trôi nhiều ngả
Đứng trước cảnh sông nước bao la, nỗi buồn của nhà thơ trở nên rõ ràng hơn. Ngay từ đầu, tác giả đã dùng ngôn từ hình ảnh để tóm tắt cảnh vật, qua đó thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh 'sóng gợn' gợi nhớ đến những sóng biển lan rộng, giống như nỗi buồn của nhà thơ vô tận và sâu sắc. Sự cô đơn của con sóng giữa dòng nước rộng lớn càng làm tăng thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Cảnh thuyền và những cảnh vật khác đều mang đậm nét cô đơn, khiến người viết thơ mang theo nhiều suy tư không biết chia sẻ cùng ai. Tác giả đã sáng tạo độc đáo bằng cách dùng những hình ảnh đời thường trong thơ, điều này làm nổi bật phong cách thơ của ông.
Không nghe thấy tiếng làng xa vọng về từ chợ chiều
Nắng nhấp nhô, trời cao chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô đơn
Một lần nữa tác giả sử dụng hình ảnh 'cồn, gió, làng, chợ, bến' để thể hiện cảm xúc của mình. Từ cảm nhận của tác giả, cảnh vật trở nên se sắt và vắng vẻ, toát lên nỗi buồn, khiến cho không gian trở nên im lặng, buồn tẻ, và chính sự yên lặng đó khiến cho nhà thơ cảm nhận được.
Không nghe thấy tiếng làng xa vọng từ chợ chiều
Tác giả cảm nhận những âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng âm thanh đó mơ hồ và không rõ ràng. Nhà thơ đã cố gắng lắng nghe âm thanh xa lạ đó, nhưng không thể hiểu được, và ông đã chuyển sự chú ý của mình đến một chỗ mới.
Nắng nhấp nhô, trời cao chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô đơn
Nhà văn đã dùng nghệ thuật đối chú ý của ánh nắng xuống và trời lên để biểu hiện sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của ông. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hùng vĩ, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một cuộc sống lênh đênh, trôi nổi. Bèo trôi không biết đưa đến đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa người qua sông, cảnh tưởng như vậy khiến con người không thể thoát khỏi nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với cuộc sống, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh, nhà văn đã nhìn lên vũ trụ và thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ 'đùn' cho thấy chúng chồng chất lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà văn gọi nó là 'núi bạc'. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dội dội trong lòng con nước
Không có hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã sử dụng từ 'dội dội' để mô tả những con sóng lớn theo dòng nước, biểu hiện sự nhớ nhà luôn rất mạnh mẽ trong tâm trạng của ông và sẵn sàng truyền đạt ra xung quanh.
Bài thơ Tràng Giang thể hiện một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương, nhà cửa của nhà thơ. Đứng trước vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên, nhà thơ đã truyền cảm hứng sáng tạo từ tình cảm chân thành với quê hương, đất nước. Với cách tiếp cận gần gũi với những vấn đề hàng ngày, Tràng Giang trở thành một tác phẩm đặc sắc của văn học Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang - Mẫu 6
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thi ca cách mạng ở Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của ông tập trung vào nỗi đau của con người và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa Thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, thơ của ông thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống, con người, và thiên nhiên, như trong những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Bài thơ “Tràng Giang” được chọn từ tập “Lửa Thiêng”, nó không chỉ thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ẩn chứa một nỗi buồn sâu thẳm, đó là biểu tượng cho cuộc sống lênh đênh vài bề trong dòng đời.
Nhan đề “Tràng Giang” tượng trưng cho “sông dài”, mở ra một không gian mênh mông, không bờ bến. Câu từ mang vẻ cổ điển và tinh tế, kích thích sự liên tưởng về dòng sông Trường giang trong thơ Đường, biểu lộ sự u sầu, buồn bã của một con người bé nhỏ giữa vũ trụ mênh mông.
Câu đề từ ngắn gọn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài” thể hiện cảm xúc chính của bài thơ. Mênh mông của “trời rộng” và “sông dài” làm nổi lên sự “bâng khuâng” và nhớ thương. Từ “bâng khuâng” thể hiện tâm trạng buồn bã, u sầu, cô đơn của chủ thể. Người đọc ngay từ khổ thơ đầu đã cảm nhận được những sóng lớn trong lòng như thế:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Bốn câu thơ mở đầu đã tạo ra không gian thiên nhiên mênh mông và nỗi buồn sâu thẳm. Từ “điệp điệp”, “song song” cuối hai câu tạo nên không gian rộng lớn, sâu sắc và mang vẻ cổ kính của Đường thi. Trong thơ của Huy Cận, “sóng gợn” không dữ dội mà lại mang lại cảm giác buồn u uất, lặng lẽ, kéo dài không ngừng. Hình ảnh con thuyền là biểu tượng cho cuộc sống chất chứa sự lặng lẽ, trôi chảy như thân phận của mỗi con người giữa dòng đời vô hình.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước luôn kết nối, nhưng tác giả cảm thấy chúng đang rời xa nhau, điều này đem lại nỗi xót xa. Chính điều này kích thích nỗi 'sầu trăm ngả'. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được thể hiện qua câu thơ đặc biệt: 'Củi một cành khô lạc mấy dòng'. Huy Cận khéo léo sử dụng từ ngữ để biểu hiện cảm xúc cô đơn, lạc lõng trong vũ trụ bao la. 'Một' thể hiện sự ít ỏi, 'cành khô' biểu thị sự khô cạn, 'lạc' mang nỗi sầu, trôi nổi trên 'mấy dòng' nước rộng lớn. Cành khô đó trôi dạt, hình ảnh đơn giản nhưng sâu sắc, khiến người đọc cảm nhận sự trống vắng, cô đơn.
Bằng cách tả cảnh ngụ tình, sử dụng ngôn từ gần gũi, tác giả tạo ra không gian mênh mông và nỗi buồn vô định trong lòng người, ẩn chứa trong vẻ đẹp của thiên nhiên.
Nỗi lòng dần được mở ra, để người đọc khám phá và hiểu hơn.
“Cồn nhỏ lơ thơ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ “lơ thơ” và “đìu hiu” tạo nên một hình ảnh vắng lặng, lạnh lẽo, khiến con người trở nên đơn côi, rớt rơi đến mức thốt lên 'Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều'. Chợ chiều đầy yên bình, vắng vẻ khiến người ta cảm nhận được sự lặng lẽ, vắng vẻ.
Nắng chiều xuống, trời cao lên
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
“Nắng chiều xuống, trời cao lên” biểu hiện sự mở rộng không gian, nhưng cũng là sự chia lìa giữa nắng và trời. “Sâu chót vót” là cảnh mới, đầy sáng tạo của Huy Cận, thể hiện nỗi buồn không chỉ trong thiên nhiên mà còn đến trời cao. “Sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” thể hiện không gian mênh mông và cô đơn của vật thể trước cảnh tượng đó. Tác giả thông qua so sánh khiến người đọc thấy nỗi buồn không chỉ của cảnh vật mà còn của con người. Nhà thơ mong muốn tìm thấy chút ấm áp trong khung cảnh lạnh giá và cô đơn. Nhưng thiên nhiên đáp lại bằng hình ảnh quạnh quẽ, u sầu.
“Bèo trôi dần, hàng liên kết
Mênh mông không một chuyến đò qua
Không cần chia sẻ gì thêm nữa
Im lặng bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi nhẹ trên sông thường thấy trong thơ cổ điển, biểu hiện cuộc đời lênh đênh, lạc lõng giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận, không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng liên kết” cho thấy không thể mô tả hết những số phận cô đơn trong cuộc sống.
“Mênh mông không chuyến đò qua
Không mong chia sẻ thêm niềm thân thương.”
Tác giả sử dụng cấu trúc phủ định '...không...không' để loại bỏ mọi kết nối con người. Trước mắt, không có gì để gợi nhớ niềm thân thiết, chỉ còn thiên nhiên mênh mông. Cầu đò ngang, biểu tượng của sự kết nối con người, bị thiên nhiên nhấn chìm, biến mất.
Tác giả sử dụng những hình tượng cổ điển để diễn đạt nỗi lòng.
“Lớp mây cao đùn, núi bạc,
Chim nghiêng cánh, bóng chiều sa.”
Hình ảnh mây và chim mang nét đẹp cổ điển, mở ra không gian trữ tình và sâu lắng từ tứ thơ Đường. Từ 'đùn' khiến mây trở nên sống động, có động lực từ bên trong, như mây đang đùn ra mãi. Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa xuống mặt tràng giang, tạo ra hình ảnh thời gian qua 'cánh chim' và 'bóng chiều', thường dùng để diễn đạt hoàng hôn trong thơ cổ điển.
Tác giả dùng những biện pháp tả cảnh thiên nhiên và so sánh độc đáo để tạo ra không gian bao la và nỗi buồn sâu cho con người. Sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người trong thơ Huy Cận làm tan chảy trái tim độc giả, thể hiện sự tài tình và cảm nhận tinh tế về thiên nhiên và lòng người. Điều này cũng thể hiện tình yêu quê hương của nhà thơ.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang - Mẫu 7
Có những tác phẩm văn học sau khi đọc xong, ta thường quên ngay, nhưng cũng có những bài văn bài thơ đặc biệt, đã chạm sâu vào lòng ta bằng sức hút mạnh mẽ. Tràng Giang của Huy Cận là một ví dụ điển hình! Đọc bài thơ này, ta như cảm nhận được dòng thơ nhẹ nhàng như dòng sông, chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, gợi lên những ấn tượng sâu sắc!...
“Thơ của Huy Cận thường mang nỗi buồn”, Xuân Diệu, người bạn thân thiết của Huy Cận cũng đã từng nói như vậy! Hai người bạn này, hai nhà thơ đa tình đều yêu mến thiên nhiên mênh mông, nhưng trong thơ của Xuân Diệu, thiên nhiên mang hương vị ngôn ngữ tình yêu, trong khi đó ở Huy Cận, thiên nhiên thể hiện nỗi buồn lẻ loi cô đơn của “cái tôi”. Tràng Giang là một trong những kiệt tác chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm đó! Đọc bài thơ này, ta có thể bắt gặp nỗi buồn của chàng trai mắt lệ tràn đầy, nỗi buồn mà Huy Cận đã mô tả như sau:
“Trong thơ Việt Nam, có một tiếng đàn địch buồn, không phải âm nhạc của thiên đàng, không phải biểu hiện của tình yêu, không phải chuyện của cái tôi, mà là nỗi đau dài lâu” có thể là tiếng đàn dạo buồn của khóm trúc, có thể là than vãn của bờ sông, có thể là mặt trăng đơn côi đồng cảm với các ngôi sao? Tiếng đàn rền rĩ như là một dải lụa ôm ấp nỗi đau, tiếng len lỏi vào hồn như không khí của núi đèo, tiếng làm ướt lệ trên mắt…”.
Một nhận xét sâu sắc! Chỉ cần đoạn văn đó, ta đã hiểu được nhiều về thơ của Huy Cận!
Đặc biệt, khi nhìn về Tràng Giang...
Bài thơ được ví như một bức tranh thiên nhiên, linh hồn của nó chứa đựng một nỗi buồn sâu thẳm, hoang vắng, mơ hồ... như có một cái gì đó đang tàn lụi cô đơn'.
Sóng Tràng Giang gợn lên buồn bơ vơ
Thuyền trôi dòng nước lặng lẽ qua.
Nhìn những đợt sóng nhỏ nhẹ nhàng gặp nhau rồi đi xa đến phía cuối bờ cát, tâm hồn nhà thơ như tràn ngập một cảm xúc buồn bơ vơ. Từ “buồn bơ vơ” đã hình thành hình ảnh một nỗi buồn sâu thẳm, mơ hồ, không lời thoại… Thường người ta dùng “buồn bơ vơ” để miêu tả cảm giác hoang vắng, nhưng ở đây tác giả lại sử dụng nó để diễn tả một nỗi buồn, đó là một ý tưởng độc đáo về cách sử dụng từ ngữ để biểu hiện một nỗi buồn đẹp đẽ! Âm điệu thơ như là tiếng ngân xa xa, quen quen thuộc thuộc! Có lẽ Huy Cận đã nhớ đến câu ca dao:
Sóng bao nhiêu gợn, lòng em buồn bấy nhiêu
Ở đây, có bấy nhiêu sóng trên dòng Tràng Giang là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình vang lên một tiếng buồn đọng lại giữa đất trời vũ trụ…
Và… nổi bật giữa những đợt sóng bạt ngàn đó là hình ảnh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những đợt sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…
Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!
Chuyển sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi theo dòng nước nữa:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng…
Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại' một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?
Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hững hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bằng bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:
Một trái tim lạc lõng giữa những đêm vắng
Tiếng đòi hỏi xa xa gió thổi chiều
Trong bài thơ ấy, tâm trạng lan tỏa rõ ràng. Có lẽ Huy Cận đã cảm nhận được hết vẻ đẹp buồn của con người trước bức tranh mênh mông của trời sông. Buồn dẫn dắt từng nhịp nhàng, từng hình ảnh tinh tế và đơn côi! “Một trái tim lạc lõng” kể chuyện, “giữa những đêm vắng” đầy cảm xúc, một buồn không đơn giản mà còn ẩn chứa sự sâu lắng, buồn đến mức lạnh lẽo, đến mức xao lòng.
Câu thơ “Tiếng đòi hỏi xa xa gió thổi chiều”, có thể hiểu là “tiếng của lòng xa xa, như gió thổi từng buổi chiều”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi cho chính bản thân mình' “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “lòng xa vãn?”…
Ở đây, Huy Cận đã tận dụng khá tự nhiên một kỹ thuật quan trọng trong thơ cổ điển' mượn chữ “động” để kể về điều “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe âm thanh phát ra để chìm vào không khí tĩnh lặng đến rợn người!
Nỗi buồn kia như càng lan tỏa rộng lớn trên bức tranh không gian mà tác giả tạo ra bằng những từ ngữ rất độc đáo:
Sâu chót vót dưới ánh nắng lên
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng cả thủ pháp của một nhiếp ảnh gia và nghệ thuật của một họa sĩ để tạo ra một bức tranh độc đáo. Thông thường, từ “chót vót” chỉ được dùng để mô tả chiều cao, khiến không gian trở nên mở ra. Trong bức tranh của sông dài, “sâu chót vót” của bầu trời thêm phần cao, vài mảnh đất nhỏ, và “bến cô liêu”. Thiên nhiên tỏ ra phóng khoáng hơn và dường như sẽ trở nên sống động hơn, nhưng không! Khi trái tim còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Mảnh đất giữa sông dài, vài cơn gió “đìu hiu”, chưa đủ để tạo nên sự tươi vui cho cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” vẫn mơ hồ và mong manh! Xung quanh tác giả giờ đây chỉ còn là thiên nhiên, một thiên nhiên với nỗi buồn ảo ảnh và da diết đến mức trải rộng cả không gian và thời gian' những tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt từ bờ lau và cỏ trúc, nỗi sầu vạn cổ tự xưa bỗng chốc theo gió thổi về! Giờ đây, giữa vũ trụ bao la đang mở rộng, chỉ còn lại một mình tác giả, một mình đứng lặng lẽ chôn chân trong quanh quẹ quanh, cô liêu, giống như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã trải qua chuyến du hành tương tự như thế:
Người đã đi trước bao giờ!
Người chưa tới sau là đâu!
Giữa trời đất vô biên
Ta vẫn mãi giọt lệ!
Khi người cô đơn đối diện với hoang vắng tịch liêu, nỗi cô đơn trở nên sâu sắc hơn. Khổ thơ thứ ba như mở ra một khung cảnh không có dấu vết của sự sống, một khung cảnh đã chìm đắm trong thế giới của sự cô lập đến vô cùng.
Bèo dạt về đâu, hàng chen chúc
Mênh mông, chẳng có chuyến đò nào ngang
Không có gợi chút niềm thân thiết
Chỉ lặng lẽ bờ xanh chờ bãi vàng.
Cảm xúc buồn được mở rộng, mặc dù thơ có thêm vài sắc màu nhạt nhòa! Cảnh vật mở ra thêm bờ bãi, thêm chút vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế 'củi một cành khô' lênh đênh bằng những đám bèo 'hàng nối hàng'. Tuy nhiên, “hàng nối hàng” đó xuất hiện như câu trả lời trong dòng sông của nhà thơ, để tâm hồn trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa trời sông mây nước' 'Chiếc đảo hồn tôi cảm thấy tuyệt vọng'.
Một chuỗi từ mênh mông lặng lẽ đã tạo nên không khí u buồn, càng phần nhấn mạnh' 'Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối giữa làng thêm nỗi cô liêu. Tình trạng cô đơn đã đạt đến đỉnh điểm, mong muốn tìm thấy một chút gì đó thân thiết trong “chuyến đò ngang”, một liên lạc nào đó với con người qua một chiếc cầu nhỏ, nhưng tất cả đều mất đi:
Thuyền không nối dây qua đó
Chờ mong một chiếc buồm!
Hai bờ sông như hai thế giới tách biệt, không giao lưu với nhau! Dòng nước vẫn chảy vô tư. Tràng giang ngày càng mở rộng, mỗi lúc một bao la, mỗi lúc một người hài lòng dưới tâm trạng nặng nề của người thi sĩ trẻ, đã sớm đặt nền nỗi buồn cổ điển và những đám bèo đang tản giật trên sóng nước có thể là biểu tượng cho thân phận của nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, mênh mông, nhỏ bé, dễ biến đổi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời. Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu từng miêu tả' 'Chúng tôi cũng mơ màng, mỗi hồn người một bờ bơ vơ trong thế giới này là một khung cảnh bơ vơ'. Vậy nên, nỗi buồn của Huy Cận, của một thi sĩ đã 'hơn một lần gửi áo cho trăng' và vẫn 'sầu mưa', 'tủi nắng” không phải là không có lý do, nó cũng chính là nỗi buồn của thời đại, là nỗi buồn của thanh niên tri thức lúc bấy giờ, những con người bị 'giấc mơ đè nát cuộc đời con' với những mảnh linh hồn nhỏ, bị 'thiên hạ bỏ đìu hiu' với những bước chân 'muốn giấu lỗ, tránh gai đời'! Và có lẽ chính vì thế họ từng than thở:
Chưa biết bao nhiêu lần hoảng sợ
Trong sầu đen gãy cánh như dơi
Chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng
Trào dâng như dòng sông không rửa sạch sầu đời!
Dùng dòng sông để chiếu sáng linh hồn cô đơn nhỏ bé, nỗi buồn ấy lại trở nên càng sâu sắc và nặng nề hơn! Nhà thơ đã mang đến tâm trạng cô đơn buồn bã đó và gói gọn vào cảnh thiên nhiên.
Mây trắng đọng trên đỉnh núi bạc
Chim nghiêng cánh, bóng chiều đổ xác
Giữa bầu trời mênh mông xanh ngắt, mây tụ lại như những ngọn núi bạc trắng xoá, bất ngờ có một chú chim nhỏ xuất hiện, 'Bóng chiều đổ xác, nặng nề đến mức nó phải nghiêng cánh” (Xuân Diệu).
Sử dụng một vật thể hữu hình để miêu tả một điều vô hình. Việc phân biệt giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô tận mà Huy Cận đã làm rất khó khăn! Cảnh vật trong thơ ông rất buồn nhưng vẫn không đủ mạnh mẽ và hùng tráng. Điểm độc đáo ở đây là cách nhìn của nhà thơ! 'Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy bóng chiều đổ xác!” Trong khi Nguyễn Du nhìn thấy 'bóng chiều' qua những nhánh 'tơ liễu thướt tha' và Hàn Mặc Tử nhìn thấy 'bóng xuân sang' trên giàn thiên lí, Huy Cận cũng thể hiện sự tinh tế khi nhận ra 'bóng chiều' trên một cánh chim nghiêng! Một chú chim mình mảnh, đơn độc trong ánh chiều buông, khiến cho không gian như mở rộng ra thêm! Không gian vừa được mở ra trong dáng dấp của hàng ngàn mây 'lớp lớp' đan chồng, đột nhiên ầm lên hoàng hôn nhanh chóng, đó cũng là lúc tâm hồn người du khách bỗng nhớ về quê nhà.
Lòng quê dễ dàng trào dạt theo dòng nước
Kể cả không có khói hoàng hôn, cũng nhớ nhà
Tác động của thơ Đường triền miên trong câu cuối, lấy cảm hứng từ tình yêu quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.
Ngày mộng hương trên đất xứ
Yên bình dòng sông nhớ nhân sầu
Nhưng Huy Cận đã thể hiện tình yêu mạnh mẽ và sâu sắc hơn! Tình yêu rất mãnh liệt, đẩy mạnh như thủy triều hùng vĩ. Từ “dợn dợn” cũng như sóng Tràng giang “điệp điệp”, tạo nên âm thanh trầm lắng chứa đựng nhiều cảm xúc. Trước đây, thơ Đường cần “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh cần “khói buồn bay lên mây” để nhớ nhà, nhưng ở đây lại khác. Nhân vật lãng mạn trong thơ Huy Cận đối mặt với không gian không mờ sương, không khói hoàng hôn nhưng vẫn khao khát quê hương xa xôi. Huy Cận không cần phải dựa vào bối cảnh bên ngoài! Lúc này nỗi buồn đã trở thành hình dáng, không chỉ là cảm giác sầu sắc vô tận từ việc ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết thúc được diễn đạt qua những cảm xúc sâu sắc và lãng mạn! Điều này gợi nhớ đến những dòng thơ của quá khứ:
Trải qua dòng nước sông đặc
Từng bước chân dài người đi mãi
Nỗi buồn trong bài thơ lan tỏa rộng lớn và sâu sắc, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã mô tả' “Chúng ta nói về nỗi buồn ở những nơi cao nguyên vắng vẻ, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người xa lạ dừng bước trên núi, buồn trong đêm mưa, buồn nhớ quê… Người đã thức tỉnh tâm hồn buồn của Đông Á, người đã kích thích tâm trạng buồn mấy nghìn năm vẫn lưu lại trong lòng đất này!”.
Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và sâu sắc tình yêu quê hương! Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu từng khen ngợi' “Tràng giang là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước, từ đó mở lối cho tình yêu với quê hương.”
.........
Tải file tài liệu để đọc thêm bài văn cảm nhận về Tràng giang