1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông
3 bài thể hiện Cảm nhận của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
1. Cảm nhận về bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, mẫu số 1:
Bài thơ này phản ánh thái độ và tinh thần kiên cường của tác giả trong tình trạng bị bắt giữ bởi chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc). Mặc dù ở trong tù, nhưng nhà cách mạng vẫn giữ vững lòng dũng cảm và niềm tin vào sứ mệnh cứu nước.
Điều này làm cho bài thơ truyền đạt được một cách mạnh mẽ sự đam mê yêu nước và quyết tâm của tác giả, thông qua sự sôi nổi và lạc quan trong cách viết thơ.
Bài thơ tuân theo đúng thể luật Đường thất ngôn bát cú, tuân thủ các quy tắc về cấu trúc, vần, niêm, và luật lệ của thể loại thơ này.
Bốn câu đầu có thể phân thành hai cặp: câu 1, 2 và câu 3, 4. Cặp 1, 2 được gọi là phần đề (thừa đề vừa phá đề) theo bố cục của thơ Đường luật, có mục đích giới thiệu vấn đề đề cập. Ở đây, nhà thơ muốn nói về tình huống bị giam cầm.
Vẫn là người kiên cường, vẫn giữ phong thái lịch lãm,
Chạy mệt chân thì nghỉ ở tù.
Ý của hai câu này có thể diễn đạt lại: việc ở tù không phải vì bị bắt giam mà là do mệt mỏi sau những hoạt động cách mạng, tạm nghỉ ngơi ở đây. Trong tù, vẫn giữ được bản tính và phong cách sống của mình: là người có tinh thần cao quý, là người luôn duy trì dáng vẻ thanh lịch, tao nhã.
Những ý tưởng hay nhất về Cảm nhận sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
Lối vào đề tinh tế. Tác giả nhấn mạnh việc bị bắt vào nhà tù một cách hài hước, không tập trung vào những mặt đen tối, đau đớn hoặc sợ hãi. Thay vào đó, với một tinh thần bình thản và hóm hỉnh, ông thể hiện sự vững vàng bằng cách sử dụng từ 'vẫn' đi kèm với hai tính từ phản ánh tính cách trước sau như nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Điều này biến cảnh bị giam giữ, mất tự do thành một hành động tự nguyện của bản thân.
Hai câu tiếp theo là phần thực, có nhiệm vụ mô tả hoặc trình bày sự việc được giới thiệu trong phần đề.
Khách không nhà trên biển rộng lớn,
Lại người có tội giữa năm châu.
Miêu tả người tù như 'khách không nhà', 'người có tội' là rất chính xác. Từ 'đã', 'lại' ở đầu hai câu thể hiện rõ tình trạng tù đày của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng kết hợp 'khách không nhà' với 'năm châu', nhà thơ muốn vẽ một hình ảnh tự do hơn về người tù. Sự cân đối giữa hai câu này không tạo ra sự xung đột trong ý thơ. Thực tế, sự tương phản này càng làm nổi bật hình ảnh độc đáo của người tù: một con người thuộc về năm châu, bốn biển, của cả thế giới. Hai câu này vẫn tiếp tục tôn vinh tinh thần vui vẻ, hóm hỉ như câu đề.
Từ ý thơ đến giọng điệu, bốn câu đầu của bài thơ phản ánh tinh thần lạc quan, thái độ kiêu ngạo, không coi trọng việc bị giam cầm của người tù - nhà văn tài danh Phan Bội Châu.
Thái độ kiêu căng, tinh thần lạc quan đã được trình bày ở trên là biểu hiện của lòng kiêng nể, bất khuất.
Nhưng bốn câu cuối cùng thể hiện sự kiêng nể, bất khuất ở các khía cạnh:
Hai câu thứ 5 và 6 được coi là hai câu luận, với mục tiêu thảo luận và mở rộng vấn đề. Ở đây, tác giả khẳng định rằng: lòng dũng cảm và trí tuệ của người chiến sĩ cách mạng không thể bị khuất phục bởi bất kỳ tình cảnh tù đày nào. Do đó, dù bị giam giữ, người tù vẫn giữ vững sự độc lập:
Bằng cách bao quấn tay chặt bồ kinh tế,
Miệng mỉm cười làm tan biến mọi oan thù.
Các hành động 'bao quấn tay', 'mỉm cười' thể hiện tinh thần coi thường, phớt lờ mọi khó khăn trước mắt
Hai câu cuối cùng, câu thứ 7 và 8, được xem như là câu kết, với mục đích nâng cao vấn đề hoặc thể hiện cảm xúc của tác giả. Trong bài thơ này, hai câu này khẳng định sự kiên định mạnh mẽ của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ khinh thường đối với nguy hiểm của tù đày.
Hãy sống với sứ mệnh, với công việc,
Cứ mọi thử thách đều qua đi.
Hai từ 'sứ mệnh' đặt cạnh nhau như một tiếng hát mãnh liệt, làm nhấn mạnh sự quyết tâm trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp cứu nước. Chúng như hai hòa âm mạnh mẽ, âm thanh rộn ràng, kích thích lòng dũng cảm, kết thúc một khúc ca tình yêu đất nước.
Bài thơ truyền đạt nhiều cảm xúc, trước hết là nhờ vào tình yêu nước mãnh liệt của tác giả. Bị bắt, đối mặt với nguy cơ bị giao lại cho thực dân Pháp, nguy cơ tử hình, Phan Bội Châu vắng mặt, nhưng tác giả vẫn không bao giờ chịu sụp đổ, không hề tỏ ra bi quan hay nản chí. Từ đầu đến cuối, ông vẫn thể hiện tinh thần lạc quan, niềm vui mãnh liệt trong sự nghiệp cứu nước. Song song, sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ còn được kích thích bởi giọng thơ sôi nổi, yêu đời, phản ánh tâm hồn kiên cường, thái độ kiêu hãnh. Điều này sẽ thúc đẩy ý chí quật cường của người đọc, đặc biệt là thanh thiếu niên và người trung niên.
2. Cảm xúc của tôi sau khi đọc bài Vào nhà tù Quảng Đông cảm tác, mẫu số 2:
Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác thể hiện quyết tâm, khẳng định chí hướng và lí tưởng của tác giả. Câu đầu bài tỏ ra tự nhiên, kết hợp với sự dí dỏm, biểu hiện sự coi thường đối với nguy hiểm, và sự kiên định không dao động của tác giả:
'Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân vẫn giữa tù'.
Hào kiệt là người có tài năng hơn người. Theo sách Hoài Nam tử, trí tuệ vượt trội gọi là anh, vượt trội hơn nữa gọi là tuấn, vượt trội hơn nữa gọi là hào, vượt trội hơn nữa gọi là kiệt. Phong lưu cũng có nghĩa là anh hùng, kiệt xuất. Câu đầu tiên ám chỉ rằng mặc dù hoàn cảnh có thay đổi, nhưng tư cách anh hùng, phong thái phong lưu vẫn không bị thay đổi.
'Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu'
Không phải là Phan Bội Châu đã thấy mọi chân, mà là giả định như một cuộc dừng chân sau hành trình dài mệt mỏi, coi như một điều bình thường trong cuộc sống. Đó là cách biến việc nghiêm trọng thành điều bình thường của nhà cách mạng để tự động viên, an ủi.
Hai câu tiếp theo nói về cảm nhận về bản thân:
'Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu'.
Cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, bài viết được lựa chọn
Dân Trung Quốc có câu tục ngữ « Tứ hải vi giai », có nghĩa là coi bốn biển như ngôi nhà. Tình hình của Phan Bội Châu còn khốn khổ hơn: Ông phải rời bỏ nhà để tham gia hoạt động, trở thành khách không nhà trên bốn biển - mỗi nơi đều xa lạ, không có nơi nương tựa, trải qua những tháng ngày phiêu bạt, bơ vơ. Người có tội là người bị truy đuổi, truy nã khắp nơi, mỗi nơi đều có nguy cơ bị bắt, không có nơi nào yên bình được.
So sánh câu này với hai câu trước mới thấy được tinh thần anh hùng kiên cường của tác giả: Dù đối mặt với hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, ông vẫn giữ vững chí khí, phong thái hào kiệt.
'Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù'
Hai câu luận đã thể hiện rõ khát vọng mãnh liệt mà Phan Bội Châu từng nuôi dưỡng: Khát vọng cứu nước (lo lắng cho đất nước). Hình ảnh thơ mang tính lãng mạn hùng biện khiến nhân vật trở nên huyền thoại, không chỉ là con người bình thường trong vũ trụ mà còn trở nên vĩ đại, từ tầm vóc đến trí tuệ đều trở nên vĩ đại, thần thoại.
Nếu trước đó mọi người đã ngưỡng mộ hoài bão và tinh thần kiên cường của nhà cách mạng Phan Bội Châu, thì lúc này, họ càng thêm kính phục bản lĩnh của vị anh hùng ấy, dù trong tình thế tù đày vẫn bủa tay ôm chặt ước mơ và mỉm cười giải thoát khỏi gánh nặng căm thù.
Bài thơ kết thúc bằng hai câu thơ khẳng định ý chí sắt đá không khuất phục:
'Thân ấy vẫn tồn tại, còn sứ mệnh cứu nước
Bao nhiêu gian nguy sợ gì chứ'
Một lần nữa ta cảm nhận được thái độ kiêng kị của con người vượt lên trên cái chết. Lời thơ cương quyết, dứt khoát như chính ý chí thép của người tù cách mạng. Kẻ thù có thể giam giữ, tra tấn, thậm chí giết hại những người yêu nước, những người chiến sĩ cách mạng, nhưng niềm tin không khuất phục, ý chí chiến đấu kiên cường của họ thì chúng không thể chế ngự. Với những người như Phan Bội Châu, còn sống là còn chiến đấu.
Bài thơ kết thúc với một khúc nhạc hùng vĩ, vẫn vọng mãi trong lòng của người đọc. Mỗi khi đọc lại bài thơ, ta cảm thấy xúc động bởi cảm xúc mãnh liệt của tác giả đã chạm vào tâm hồn chúng ta. Đó chính là nguồn cảm xúc tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu cho hình tượng thơ và tạo ra phong cách trữ tình cách mạng của Phan Bội Châu. Và chính những cảm xúc đó đã làm cho thơ của ông trở nên cuốn hút và lôi cuốn không thể cưỡng lại được.
3. Cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, mẫu số 3:
Thơ văn yêu nước và cách mạng thế kỷ XX đã thành công trong việc tạo ra nhiều hình tượng anh hùng, và bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác chính là một trong những tác phẩm đại diện nổi bật nhất.
Bài thơ đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn đẹp về nhà cách mạng yêu nước Phan Bội Châu.
Sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ nước mất nhà tan tác, dân chúng đau khổ, Phan Bội Châu bất an. Tình yêu nước và lòng thương dân sâu sắc đã thúc đẩy tâm hồn trẻ trung của Phan Bội Châu tìm đường giải cứu quê hương. Dù cuộc đời anh trải qua biết bao sóng gió và khó khăn, nhưng ông không bao giờ từ bỏ tinh thần quyết tâm, mà ngược lại, ông ngày càng trở nên hùng dũng và kiên cường hơn. Và đây là hình ảnh tuyệt vời về vị anh hùng ấy:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Hai câu đầu tiên là hai câu mở đầu: Giới thiệu vấn đề cần được thảo luận:
'Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù'.
Ý tưởng sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu
Bài viết khéo léo mở đầu. Ở đây, nhà thơ muốn nhấn mạnh đến hoàn cảnh bị giam giữ. Nhưng phong cách rất mạnh mẽ, tự tin, sảng khoái, thanh thản. Bị bắt giữ trở thành cơ hội nghỉ ngơi trên hành trình dài. Tiếng cười vang lên kiêu hãnh giữa những tấm tường sắt của nhà tù, vượt qua xiềng xích, tôn vinh tinh thần anh hùng cao cả hơn mọi sự hạn chế và hành hạ từ kẻ thù, cảm thấy hoàn toàn tự do tinh thần. Hai câu này có thể diễn đạt lại ý rằng: Trong nhà tù, tinh thần và phong cách sống vẫn được giữ nguyên: người tài cao, chí lớn (hào kiệt), người lịch lãm, tinh tế (phong lưu). Ở đây vì hoạt động cách mạng nhiều, tạm thời nghỉ ngơi.
Tác giả đề cập đến việc bị giam giữ nhưng không nhấn mạnh vào rủi ro, đau khổ hoặc lo sợ. Thay vào đó, nhà thơ coi đó như một khoảnh khắc nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động sôi nổi. Mặc dù trong hồi ức, cụ viết: 'Từ khi sinh ra cho đến nay, chưa bao giờ trải qua mùi vị thất bại đắng như thế này'. Sự thản nhiên kết hợp với tính đùa cợt ở hai câu đầu tiên đã được thể hiện ngay từ cách sử dụng từ 'vẫn' kết hợp với hai tính từ biểu hiện phẩm chất trước và sau như một của nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Điều này tạo nên một nụ cười nhẹ nhàng khi nhà thơ kết thúc câu thứ hai với cụm từ 'thì hãy ở tù', biến việc bị hãn giữ, mất tự do thành việc tự nguyện.
Đã là khách không nhà giữa bốn biển,
Lại là người có tội giữa năm châu.
Hai dòng thơ này khác biệt với lối đùa vui của hai câu đầu. Ở đây, như lời tâm sự của một tâm hồn anh hùng, không để kêu ca, mà để bày tỏ sự đau đớn sâu sắc trong lòng. Miêu tả người tù như là 'khách không nhà', 'người có tội' ở 'năm châu' thật sự là một trò cười nhạo về tình trạng giam giữ của quân phiệt ở Quảng Đông (Trung Quốc). Từ 'đã', từ 'lại' ở đầu hai câu thực sự nhấn mạnh thêm tình trạng của người tù cách mạng. Nhưng gắn 'khách không nhà' với 'năm châu', như muốn vẽ nên hình ảnh của một người tù phóng khoáng hơn. Sự đối lập (trong hai câu cuối cùng) không làm cho ý thơ trở nên mâu thuẫn. Ngược lại, nó làm nổi bật hơn hình ảnh đặc biệt của người tù: một con người của năm châu, của bốn biển, của cả thế giới.
Nỗi đau của Phan Bội Châu trở thành nỗi đau của một anh hùng, là nỗi đau của toàn dân.
Chỉ khi đọc đến đây, ta mới thấy rõ hơn sự kiên cường của Phan Bội Châu. Trong hoàn cảnh khó khăn, khi bị coi là 'khách không nhà', 'người có tội', ông vẫn giữ vững tinh thần hào kiệt.
Và anh hùng hào kiệt ấy vẫn toả sáng với khí phách và lòng dũng cảm:
Ôm trọn bồ kinh tế vào lòng,
Cười nắng hòa oán thù vụt tan.
Tác giả rõ ràng khẳng định: Tinh thần cao quý, tài năng vượt trội của chiến sĩ cách mạng không thể bị khuất phục bởi bất kỳ khó khăn nào. Lối diễn đạt uyên bác ở đây thể hiện sự lãng mạn, anh hùng ca, khiến con người không còn bình thường nữa mà trở nên vĩ đại như thần thánh. Dù bị giam giữ, người tù vẫn 'ôm trọn', 'mở miệng' để thể hiện sự phớt lờ, coi thường mọi khó khăn.
Nhìn lại quãng đời của Phan Bội Châu, hoài bão cứu nước, cứu dân đã được ông ôm ấp từ khi còn là Phan Văn San trẻ tuổi:
Phùng xuân trở lại, có thể, dễ dàng
Chiếm toàn bộ hành tinh với một nụ cười,
Đạp nát những vùng đất u minh,
Đem mùa xuân trở lại cho non sông hương quê.
Hoài bão đó, tinh thần lớn đó vẫn không mờ nhạt dù ông bị giam trong ngục tù. Gần chạm cái chết nhưng ông vẫn kiêu hãnh đối mặt với mọi tàn ác của kẻ thù.
Tinh thần cách mạng lạc quan đã biến ông thành một phòng thủ vững vàng, giữ chắc ý chí chiến đấu sắt đá của mình:
Thân thể vẫn tồn tại, sứ mệnh cứ mãi vương vấn
Bất cứ nguy cơ nào cũng không gây sợ hãi.
Trong bài thơ này, hai câu cuối giống như một lời thề vững vàng, như một tuyên ngôn của một người đang phải đối mặt với tình trạng ngục tù tăm tối. Nhưng dường như kẻ giam giữ không thể khống chế được một trái tim, một tâm hồn trung kiên với đất nước. Ông khẳng định rằng chỉ cần ông còn sống, sứ mệnh cứu nước sẽ vẫn tiếp tục. Ông sẽ dốc hết sức mình để thực hiện sứ mệnh đó. Những nguy hiểm, gian truân đối với Phan Bội Châu không là gì đáng sợ. Tinh thần mạnh mẽ, kiên cường, không sợ hãi ấy của Phan Bội Châu khiến người đọc phải khâm phục trước một tấm lòng cao thượng. Đồng thời khẳng định quyết tâm kiên định của nhà thơ vào tương lai, thể hiện sự phớt lờ với nguy hiểm của ngục tù. Hai từ 'vẫn' đứng bên cạnh nhau tạo nên âm điệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sứ mệnh cứu nước.
Trải qua cơn bão gắt của cuộc đời, lòng dũng cảm của cụ Phan Bội Châu vẫn bất khuất như một hòn đá vững chãi giữa sóng gió. Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông lưu lại dấu ấn của một truyền thống kiên cường, một tinh thần không khuất phục. Đọc lại bài thơ, lòng ta lại ngẩng cao, tự hào về những nhà cách mạng dũng mãnh.
Trang giấy kết thúc bằng dòng chữ 'HẾT' không phải là điểm dừng của tinh thần cách mạng. Nó chứa đựng nhiều hơn thế, là sức mạnh vô hình, là sự kiên định không bao giờ phai nhạt. Hãy nhìn xa hơn, thấu hiểu sâu hơn, từ bài thơ này, ta rút ra nhiều bài học quý báu cho cuộc sống.
Sau khi đọc xong bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác, tâm hồn của em như được làm mới, như một hạt giống được tưới nước vàng, nảy mầm, sống động hơn bao giờ hết. Cuộc sống có nhiều khó khăn, nhưng nhìn vào tinh thần của những người tiền bối, em tin rằng mình cũng có thể vượt qua mọi thử thách.