1. Tóm tắt nội dung
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
7. Bài mẫu số 6
8. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
9. Phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính
10. So sánh hình ảnh người lính cách mạng ở bài thơ Đồng chí và Tiểu đội xe không kính
11. Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ Đồng chí và Tiểu đội xe không kính
Đề bài: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
5 bài văn mẫu Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
I. Dàn ý Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Chuẩn)
1. Bắt đầu
- Tổng quan giới thiệu về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
- Chia sẻ cảm nhận tổng quan về hình ảnh người lính trong hai bài thơ.
2. Phần chính
a. Nhận định về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”
- Chính Hữu giải thích lý do hình thành tình đồng chí, đồng đội giữa các người lính
b. Nhận định về vẻ đẹp của hình ảnh người lính trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
- Tác giả diễn đạt vẻ đẹp của chiến sĩ thông qua hình ảnh “những chiếc xe không kính”:
+ Hiển thực khốc liệt của chiến trường
+ Mô tả chân thật con đường ra mặt trận đầy nguy hiểm
- Vẻ đẹp của người lính thể hiện qua tư thế ung dung, kiêu hãnh, vượt qua mọi nguy hiểm
“Ngồi ung dung trong buồng lái”
c. Nhận định về vẻ đẹp chung và đặc biệt của hình ảnh người lính trong hai bài thơ
- Vẻ đẹp tổng quan
+ Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng
+ Tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước mãnh liệt
+ Sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
- Vẻ đẹp riêng
+ Trong bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu tận dụng hình ảnh người nông dân mặc áo lính để thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, chân chất, kết hợp hiện thực và lãng mạn;
+ Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, bức tranh về chiến sĩ lái xe hiện lên với sự trẻ trung, sôi nổi và tính ngang tàn.
3. Tổng kết
Tổng quan về giá trị của hình tượng người lính trong cả hai tác phẩm.
Mẹo Bí quyết viết bài văn nghị luận xã hội
II. Mẫu văn Cảm nhận về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
1. Mẫu số 1: Cảm nhận về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Chuẩn)
Trong cuộc chiến chống giặc để bảo vệ chủ quyền, độc lập, hình ảnh những chiến sĩ luôn là biểu tượng, tượng đài được ca tụng với phẩm chất cao quý, thiêng liêng và đẹp đẽ. Đề tài về người lính đã thường xuất hiện trong văn học, được thể hiện qua hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
“Đồng chí” của Chính Hữu, tác phẩm xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp, năm 1948, là sự ghi chép sống động về tình đồng chí, gắn bó thiêng liêng của lính chiến. Bằng ngôn ngữ thơ gần gũi, tác giả làm rõ tình đồng chí thông qua hoàn cảnh và lí tưởng chiến đấu:
“Quê hương biển mặn, ruộng đá cứng
Làng tôi nghèo, đất cày thành sỏi vàng
Anh và tôi, đôi người xa lạ
Tự phương trời, không hẹn gặp nhau.
Súng kề súng, đầu sát bên đầu gối
Đêm rét chung chăn, tri kỷ thắm thiết
Đồng chí!”
Trong cuộc chiến tranh toàn dân, nông dân sẵn sàng bỏ lại quê hương để mặc áo lính. Tác giả sử dụng thành ngữ dân gian khéo léo để mô tả tình cảm, làm nổi bật sự tương đồng về tình thân và bản tính. Điều này làm nền cho sự đoàn kết, gắn bó và tình đồng chí trong hàng ngũ chiến sĩ. Những người trước đây xa lạ, giờ đây trở thành “tri kỷ” qua những khó khăn, đau đớn của chiến tranh. Đồng chí không chỉ là đồng đội mà còn là những người bạn đồng hành, chia sẻ mọi gian khổ:
“Súng kề súng, đầu sát bên đầu gối
Đêm rét chung chăn, tri kỷ thắm thiết”
Cảm nhận về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Mặc dù có nguồn gốc từ những nơi xa xôi, nhưng họ đã tìm thấy nhau qua tâm huyết chung với đất nước và niềm tin vào chiến đấu vì sự bảo vệ dân tộc. Hình ảnh 'Súng kề súng' không chỉ tượng trưng cho lý tưởng và nhiệm vụ chiến đấu, mà còn qua từ ngữ 'đầu sát bên đầu', diễn đạt sự quyết tâm kiên định của những người nông dân mặc áo lính đuổi đánh thực dân Pháp. Đây là những cột mốc tinh thần, làm tăng cường tinh thần đồng đội và nuôi dưỡng tình cảm 'tri kỉ' giữa những người lính trong những năm chiến tranh ác liệt.
Nếu 'Đồng chí' là kết quả của thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thì 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' ra đời vào năm 1969, thời điểm cuộc chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra quyết liệt. Trong tác phẩm này, vẻ đẹp của những chiến sĩ được Phạm Tiến Duật mô tả qua sự kết hợp, đồng điệu giữa những chiếc xe không kính và người lính lái xe trên con đường Trường Sơn. Bằng giọng điệu tự nhiên, tinh nghịch và ngôn ngữ phong phú, nhà thơ đã mang đến hình ảnh sống động về những chiếc xe không kính độc đáo:
'Không có kính vì xe không trang bị kính
Bom giật, kính vỡ vụn đi theo cảm xúc'
Thành công khi sử dụng từ 'không' và ngôn ngữ thân mật, tác giả tái hiện một cách chân thực hình ảnh những chiếc xe không kính - biểu tượng cho sự tàn phá khốc liệt từ bom đạn kẻ thù, đồng thời thể hiện sự gian khổ, nguy hiểm trên con đường ra mặt trận. Trong bối cảnh ấy, hình ảnh người lính xuất hiện với tư thế kiêu hãnh:
“Ngồi bình tĩnh trong buồng lái,
Ngắm đất, ngắm trời, nhìn thẳng”
Tác giả sử dụng kỹ thuật đảo ngữ, đặt từ “ung dung” lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự điềm tĩnh trước những viên đạn bom rơi. Từ “nhìn” lặp lại ba lần tạo âm điệu ngân nga, mô tả cái nhìn sâu lắng trước vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên, đất trời mênh mông mà người lái xe ngắm nhìn. Qua cửa kính xe, họ ung dung đối diện với khắc nghiệt, tàn khốc của chiến trận: “gió vào xoa mắt đắng”, “sao trời”, “cánh chim” bất ngờ như “sa”, “ùa” vào buồng lái. Họ chấp nhận khó khăn với tinh thần coi thường, vượt qua mọi hiểm nguy:
“Không kính, ừ thì bụi phủ,
Bụi bay, tóc trắng gió thoảng bay
Chẳng cần rửa, thư thái hút điếu thuốc
Mặt đất lấm, cười đùa ha ha.
Không có kính, ừ thì áo ướt
Mưa rơi, mưa xối như ngoài kia
Chẳng cần đổi, lái xe ngàn dặm nữa
Mưa dừng, gió thoảng khô nhanh chóng.”
Sáng tạo từ cấu trúc câu “Không có… ừ thì” và sử dụng kết cấu phủ định “Chưa có” làm nổi bật tinh thần lạc quan, sự ngang tàn, dũng cảm của người lính đối mặt với mọi thử thách, khó khăn. Bài thơ còn mô tả vẻ đẹp của mối quan hệ đồng chí, đồng đội giữa những người lái xe: “Gặp bè bạn suốt đường đi - Bắt tay qua cửa kính vỡ”. Hình ảnh sống động thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa những người lính. Mối liên kết mạnh mẽ này xuất phát từ những đồng điệu về lý tưởng, mục tiêu chiến đấu:
“Xe không ngừng tiến về phía Nam:
Chỉ cần trong xe là một trái tim”
Cách diễn đạt hình ảnh “vì miền Nam phía trước” thể hiện lòng tin, tinh thần lạc quan của người lính vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hình ảnh hoán dụ “một trái tim” nổi bật “trái tim cầm lái” luôn rực cháy đam mê yêu nước và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của người lính.
Như vậy, thông qua hai tác phẩm, ta cảm nhận được vẻ đẹp chung của những người lính về lý tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc cùng tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt. Họ đồng thời sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những tháng ngày chiến tranh khốc liệt. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm lại khám phá vẻ đẹp người lính ở một góc nhìn riêng biệt. Trong “Đồng chí”, Chính Hữu tập trung vào vẻ đẹp của người nông dân mặc áo lính thông qua sự mộc mạc, chân chất và sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn; còn trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật vẽ nên bức chân dung người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi, và kiêu hãnh qua góc nhìn đầy hiện thực về chiến tranh kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.
Dựa vào phân tích sâu sắc, ta có thể khẳng định rằng cả “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đều mở ra, tái hiện và xây dựng thành công bức chân dung của những người lính với vẻ đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
""""---HẾT PHẦN 1""""--
Chúng tôi đề xuất Cảm nhận cá nhân về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính cho bài tiếp theo, mọi người hãy sẵn sàng cho Suy nghĩ về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí và cùng phần Soạn bài Đồng chí để nâng cao kỹ năng Ngữ Văn lớp 9 hơn.
2. Mô hình số 2: Cảm nhận cá nhân về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Từ thời kỳ lập quốc cho đến thời điểm hiện tại, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều trận chiến chống lại kẻ thù ngoại xâm. Trong những cuộc đối đầu gian khổ nhất là chiến tranh chống thực dân Pháp và chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Mỗi khi đất nước đối diện với nguy cơ, thanh niên Việt Nam luôn sẵn sàng đứng lên và bước đi theo lời kêu gọi của Tổ quốc. Họ trở thành những biểu tượng của những chiến sĩ dũng cảm và kiên cường, được mô tả chân thực trong hai tác phẩm Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Tại hai giai đoạn khác nhau, dưới bàn tay của hai nhà văn khác nhau, những người lính cách mạng trong hai bài thơ đều mang đậm tinh thần của Đảng, can đảm, gan dạ và lòng yêu nước sâu sắc. Họ đồng lòng với lý tưởng cách mạng cao cao, cam kết hy sinh vì Tổ quốc, vì sự độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, sau hơn hai thập kỷ kể từ khi Đồng chí được sáng tác, lớp con, lớp cháu của những chiến sĩ thời kỳ chống Pháp vẫn giữ mãi trong tâm hồn mình truyền thống, tinh thần đồng đội cao quý và thiêng liêng. Dù bị mưa bom, đạn dược chiến tranh cày nát, những chiếc xe không kính lại tụ tập thành tiểu đội:
Những chiếc xe từ những quả bom rơi
Đã quay về và hội tụ thành tiểu đội
Bên đường gặp bạn đồng hành suốt chặng đường
Bàn tay nắm chặt qua kính vỡ rồi.
Cảm nhận ngắn về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Từ những sự kết nối ấy, họ truyền tải cho nhau niềm tin, hy vọng và năng lượng. Tuy nhiên, điểm độc đáo là ý thức cách mạng đã hiện hữu trong họ. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, chính quyền mới thành lập nên nhận thức về chiến tranh của những người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kỳ đối mặt với thách thức từ Pháp.
Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, những chiến sĩ lái xe đối mặt với mưa bom, bão đạn, và thử thách của thời tiết trên con đường Trường Sơn hiểm trở: Bụi phủ mái tóc như sương trắng, Mưa rơi như cơn lụt trời. Mặc dù những khó khăn, họ vẫn kiên trì, tự tin vượt qua mọi thử thách, giữ cho tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh nghịch, bảo toàn vẻ bản lĩnh lính. Gia đình của họ không nằm ở phía sau, nơi có mẹ già, vợ con, nhưng lại tập trung tại chiến hào với những đồng đội thân thiết, đúng theo tinh thần của Đồng chí.
Dù ở đâu, vào bất kỳ thời điểm nào, ta vẫn cảm nhận được lòng dũng cảm đáng kính của họ, vượt qua khó khăn gian khổ của chiến tranh. Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã hiện thân thành những chiến sĩ Việt Nam, vẽ nên hình ảnh sống động, để lại những bức chân dung tuyệt vời cho đời.
3. Mô hình số 3: Cảm nhận cá nhân về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Là một nhà thơ quân đội lớn lên trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật hiểu rõ những gian khổ và khó khăn của người lính. Bàn tay của họ từng cầm súng chiến đấu và cũng đã sáng tác nhiều bài thơ về những chiến sĩ can đảm, tương thân, có tình đồng đội cao. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã vẽ nên hình ảnh người lính với tâm hồn và tinh thần đẹp đẽ như vậy.
Năm 1948, bài thơ Đồng chí xuất hiện và nhanh chóng được đông đảo yêu thích. Trong những năm bom đạn nguy kịch trên chiến trường, hình ảnh người lính trở thành biểu tượng đẹp nhất của cuộc sống, được Chính Hữu thể hiện một cách tự nhiên và tinh tế trong thơ. Những chiến sĩ gặp nhau tại một điểm chung: lòng yêu nước. Nghe tiếng gọi của đất nước thiêng liêng, họ từ bỏ công việc thường ngày, cầm súng lên để bảo vệ Tổ quốc. Dù không quen biết nhau trước, ánh sáng lý tưởng của cách mạng đã chiếu sáng vào trái tim họ, làm họ trở nên gần gũi hơn và có ý chí chiến đấu cao quý. Điều này như những anh lính trong bài Nhớ của Hồng Nguyên:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Trong thế chiến đấu đầy gian khổ, thiếu thốn, tinh thần chiến đấu của những người lính trỗi dậy mạnh mẽ, hùng hồn. Họ không sợ nguy hiểm, khó khăn, vẫn giữ vững tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước. Họ đoàn kết cùng nhau, chiến đấu một cách dũng cảm:
Nắm tay nhau chặt, tình đồng đội ấm áp.
Có gì khác biệt trong cái tinh thần đồng đội thiêng liêng ấy trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
Chạm tay qua cửa kính vỡ rồi
Dù đối mặt với thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời hơn. Cử chỉ nắm tay là biểu tượng của tình đồng đội thiêng liêng, mang theo niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm. Sống và chết, có vẻ như trong lòng mỗi người lính, khái niệm ấy không tồn tại. Họ cầm súng, nhảy lên chiếc xe sẵn sàng bước đi, biết rằng trước mắt họ là vô số khó khăn và nguy hiểm, nhưng vẫn tỏ ra lạc quan, yêu đời, vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm:
Ngồi bình tâm trên buồng lái,
Nhìn xuống đất, nhìn lên trời, đối mặt mọi thách thức.
Bài luận văn Cảm nhận về hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của em
Họ vẫn giữ cái tinh thần của người lính, không sợ nguy hiểm, vượt qua những khó khăn thời tiết của chiến trường, luôn hướng trái tim về Tổ quốc:
Chiếc xe vẫn lăn bánh vì miền Nam nằm phía trước
Chỉ cần trong chiếc xe có một trái tim.
Trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người lính tỏ ra chiến đấu mạnh mẽ, tình đồng đội cao cả; trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, ý thức cách mạng của họ còn cao hơn. Họ tràn đầy lạc quan, yêu đời, hình ảnh họ trẻ trung, sôi nổi hơn.
Thông qua hai bài thơ, chúng ta hiểu rõ hơn về những người lính, họ là biểu tượng, là niềm tin của những người dân. Đối với độc giả, họ thấy ánh sáng lý tưởng và thiêng liêng.
4. Mẫu số 4: Cảm nhận về hình ảnh người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người lính bảo vệ Tổ quốc đóng vai trò quan trọng. Đây không chỉ là biểu tượng nghệ thuật trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời kỳ Hồ Chí Minh. Các tác giả thường xuất hiện ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để ghi lại chân thực hiện thực chiến đấu của chiến sĩ. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thời chiến Pháp và chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời chiến Mỹ được phản ánh rõ nét qua Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Tác phẩm Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu ra đời năm 1948, xuất hiện trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh nông dân cầm súng được mô tả với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, nhưng cũng lãng mạn và bay bổng.
Những nông dân, dù suốt ngày gắn bó với con trâu và ruộng mảnh, nhưng nghe tiếng gọi cứu nước, họ tự nguyện bỏ quê hương để chiến đấu. Dù hầu như không biết chữ, họ vẫn giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản nhưng chính xác rằng chiến đấu để bảo vệ tự do cũng là bảo vệ mảnh vườn, ruộng mảnh, và mái ấm gia đình. Quyền sống của mỗi người là động lực mạnh mẽ.
Cuộc sống của chiến sĩ là hành trình gian khổ, vất vả, từ sinh ra đến khi đầu thai. Họ khẳng định phẩm chất cao đẹp của người nông dân khi mặc áo lính. Gặp nhau từ bốn phương trời, họ trở thành đồng đội, đồng chí của nhau.
Sinh ra và lớn lên trong những vùng quê nghèo cùng khó khăn, những chiến sĩ mang đậm bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Chiến đấu chống xâm lăng, họ để lại lưng tỏi những lừ tre, ruộng mảnh quen thuộc và mái nhà nghèo cùng với những người thân. Ruộng nương gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay, là cách nói tự nhiên, mộc mạc thể hiện thái độ dứt khoát ưu tiên nước trước nhà.
Văn mẫu tuyển chọn: Cảm nhận của tôi về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Dứt khoát nhưng không tránh khỏi nỗi nhớ quê hương, làng mạc, gia đình. Kỷ niệm của những chiến sĩ là những hình ảnh đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái nhà... những địa danh liên quan đến nơi họ chôn nhau cắt rốn, những vùng quê nghèo khó.
Trong quân đội, họ gắn bó, chia sẻ mọi cảm xúc, vui buồn, gian khổ, sống chết cùng nhau. Chẳng có gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái nắm tay chặt của đồng đội truyền đến hơi ấm và sức mạnh khi gặp khó khăn, nguy hiểm.
Trong những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta đối đầu với giặc chỉ với đôi bàn tay trắng. Bộ đội chỉ có những gì mặc nấy, dùng nấy, không có đầy đủ trang bị như hiện nay. Đẹp biết bao là nụ cười lạc quan của những chiến sĩ, cười giữa lạnh buốt là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vào ngày mai chiến thắng.
Kết thúc bài thơ với một hình ảnh tượng trưng sâu sắc:
Bóng đêm rơi, sương muối bao trùm rừng
Cùng đứng bên nhau, chờ đợi giặc tới
Đèn sáng trên đầu súng treo trên trời.
Hình ảnh này đơn giản nhưng đậm chất thơ ca về anh Vệ quốc thời kỳ đầu kháng chiến, đồng thời là lời khen ngợi tình đồng chí thiêng liêng giữa những người lính đồng lòng bảo vệ Tổ quốc, mang lại hòa bình cho dân tộc.
Nếu Đồng chí là biểu tượng của người lính Cụ Hồ trong cuộc chiến chống Pháp, thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người chiến sĩ Giải phóng trong cuộc chiến chống Mĩ, với sự khó khăn và quyết tâm bất khuất.
Người lái xe trên con đường Trường Sơn thể hiện lòng dũng cảm và sự chịu đựng tuyệt vời, vẫn giữ tinh thần lạc quan cách mạng. Bước vào trận đánh, họ đối mặt với máy bay giặc Mĩ, nhưng vẫn tỏ ra ung dung. Niềm tin vào chiến thắng và tình cảm vì miền Nam đều là nguồn động viên lớn.
Trong môi trường chiến trường, chiến sĩ lái xe không ngần ngại đối đầu với khó khăn. Tinh thần tự do và lòng yêu nước đẩy họ vượt qua mọi thử thách. Họ hiểu rằng sự đoàn kết và tình đồng đội là chìa khóa để vượt qua những gian khổ và đánh bại quân thù.
Những ai trải qua đường Trường Sơn thời chiến Mĩ mới thấu hiểu những khó khăn và nguy hiểm mà người lính lái xe phải đối mặt. Đường gập ghềnh, thời tiết khắc nghiệt, và bom đạn liên tục đều là thách thức lớn. Nhưng với tinh thần bất khuất, họ vẫn tiếp tục hành trình của mình.
Những chiếc xe tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Mặc cho gió mạnh và bụi cay nghiệt, người lái xe không ngần ngại. Không có kính bảo vệ, họ đối mặt trực tiếp với thời tiết, tăng cường cảm nhận với môi trường xung quanh. Hành trình vào chiến trường miền Nam trở nên sống động và ý nghĩa.
Mỗi khó khăn, mỗi cố gắng đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật mô tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn người đọc.
Gian nan đỉnh điểm nhưng vẫn toát lên tinh thần hào hùng. Đó là sự lạc quan và thanh thản của dân tộc, là lòng dũng cảm chảy trong huyết quản người Việt Nam. Chiến sĩ lái xe đối mặt với mọi khó khăn với thái độ vui vẻ, coi nhẹ cuộc sống, pha trộn chút tinh thần kiên cường, đầy lính lạc.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh đẹp đẽ, kết hợp giữa hiện thực khắc nghiệt và lãng mạn bay bổng:
Không có kính, đèn sáng mãi tận đỉnh,
Thùng xe có xước, mui xe mất hình.
Xe vẫn lao vút vì miền Nam phía trước,
Vì trong xe chứa đựng một trái tim.
Nguyên tắc là càng gần chiến thắng, càng nhiều khó khăn, điều đó là không thể phủ nhận. Trong những chiếc xe quân sự, dấu vết chiến tranh hiện hữu rõ ràng: không có kính, không có đèn, không mui, thùng xe trải đầy vết xước từ bom đạn giặc. Nhưng vẫn có những chiếc xe vận tải chạy về phía miền Nam - tâm điểm của cuộc chiến, vì trong từng chiếc xe chứa đựng một trái tim đang nung nấu tình yêu và trách nhiệm công dân trước số phận của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim ở cuối bài thơ là một tượng trưng nghệ thuật sâu sắc, tôn vinh những anh hùng chiến sĩ lái xe và làm giàu giá trị nghệ thuật, nội dung của bài thơ.
Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản và lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong bão bom, gió đạn, là biểu tượng cho tinh thần anh hùng cách mạng của thanh niên Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bức tranh tự sự nhưng chứa đựng nhiều tình cảm cách mạng. Nhà thơ đã mô tả hình ảnh của những chiến sĩ lái xe với lòng kính trọng và tình cảm sâu sắc. Họ là những người tự nguyện hy sinh, hạnh phúc giữa khó khăn, và sẵn lòng đặt mình vào vị trí hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, nhưng đầy ảnh hưởng, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, mở rộng... Tất cả những điểm đó tạo nên sự độc đáo và tuyệt vời của bài thơ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là tình cảm, là sự hòa mình của tác giả vào nhân vật, để khám phá và đánh giá những giá trị quý giá trong tâm hồn thế hệ anh hùng của dân tộc.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ, sáng tác ở hai thời kỳ khác nhau, nhưng cùng mang đậm phong cách lãng mạn và hiện thực, nhằm khen ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc.
Chìm đắm trong từng bài thơ là tình yêu sâu nặng, trách nhiệm cao cả của những người lính trước tình hình khẩn cấp của đất nước. Tự nguyện hiến dâng, chấp nhận khó khăn, hy sinh, từ trước đến nay duy trì tinh thần anh hùng và quyết tâm chiến đấu... đó là những đặc điểm nổi bật của hình ảnh người chiến sĩ trong thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
5. Mô phỏng số 5: Cảm nhận cá nhân về hình tượng lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật và Chính Hữu, hai nhà thơ đã trải qua những gì khó khăn, nguy hiểm của cuộc chiến, có lẽ do đó mà họ sáng tạo ra Bài thơ về tiểu đội xe không kính và Đồng chí. đến thế.
Cả hai bài thơ đều tôn vinh những tấm gương yêu nước, không màng đến khó khăn, gian khổ vì mục tiêu bảo vệ tổ quốc. Họ đều có những lý tưởng sống cao cả, vĩ đại, họ là những con người quên mình vì đất nước, sống trong chiến tranh vẫn giữ được tình đồng đội ấm áp (Đồng chí) và lạc quan yêu đời (Bài thơ về tiểu đội xa không kính), trong Đồng chí phản ánh sự giản dị, ấm áp của tình đồng đội, của những người anh em đồng lòng trong hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, nhưng vẫn đồng lòng ở bên nhau trong những thời điểm khó khăn nhất, khi bệnh tật đến, họ luôn ở bên nhau. Trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, ta thấy sự sôi nổi, lạc quan, yêu đời của người lính lái xe mặc dù không có đảm bảo về phương tiện, họ vẫn lạc quan, không ngại nguy hiểm. Cả hai bài thơ đều thể hiện sự dũng cảm của những người lính Cụ Hồ trong những tình huống khó khăn nhất.
Ấn tượng của tôi về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính rất ngắn gọn
Đọc qua hai bài thơ, chúng ta nhận thấy những phẩm chất tuyệt vời của họ. Trong bài Đồng chí, ta cảm nhận được sự sâu sắc, trầm tư, trong khi ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính, âm nhạc nổi lên với tinh thần sôi nổi, lạc quan. Đây chính là sự khác biệt giữa những người lính chống Pháp và những người lính chống Mỹ. Những người lính chống Pháp bắt buộc phải ra đi để bảo vệ đất nước, trong khi những người lính chống Mỹ đi vì niềm tin bảo vệ hòa bình, bảo vệ đất nước, nên họ tỏ ra lạc quan, yêu đời, vô tư. Ý thức của những người lính chống Mỹ cao cả hơn, họ sẵn lòng đối mặt với nguy hiểm mà không hề hối tiếc, không có nỗi lo âu. Dù gặp khó khăn và thiếu thốn, nhưng họ vượt lên trên mọi khó khăn, chiến đấu vì Tổ quốc, vì quê hương. Qua những phương pháp mô tả, tự thuật, biểu cảm, cả hai tác giả đã thành công trong việc vẽ nên hình tượng của người lính đẹp và chân thực, mộc mạc.
Những bài thơ đó có thể xâm nhập sâu vào tâm hồn và tinh thần của mọi người, như một lực lượng mạnh mẽ thúc đẩy, giúp họ vượt qua những khó khăn, gian khổ trong chiến tranh.
6. Mẫu số 6: Cảm nhận cá nhân về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Nhà văn Nga Aimatôp đã viết một lần:' Việc nói về chiến tranh không thể giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh ghi lại máu trong tận cùng trái tim con người và kể về nó không phải là điều dễ dàng'. Điều đó đúng, khi kể về chiến tranh với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam không dễ dàng. Tuy nhiên, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật, những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại nhìn nhận hiện thực đau thương đó với cái nhìn nhân văn, cao quý. Vượt qua những tổn thất, đau thương của con người, họ mở ra cho thế giới những bài thơ diệu kì về tình yêu nước, tình đồng đội gắn bó như keo sơn qua hai bài thơ 'Đồng chí' và 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính'.
Tạo hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam, hai bài thơ, mặc dù có những điểm chung dễ nhận thấy, nhưng mỗi bài lại mang đến những đẹp riêng. Bài thơ 'Đồng chí' của Chính Hữu xuất hiện năm 1948 sau chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đầy gian nan, chính quyền mới thành lập và non trẻ. Những người lính trong 'Đồng chí' là những chiến sĩ chống Pháp, họ đến từ áo nâu của nông dân, từ nghèo khó của miền quê lạc lõng:
'Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá'
Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính của PTD xuất hiện năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ đang đi vào giai đoạn ác liệt. Những người lính lúc này vẫn rất trẻ. Phần lớn vừa mới bỏ ghế nhà trường, tâm hồn còn trẻ trung. Họ là những con người:
'Băng qua Trường Sơn chống giặc Mỹ
Trái tim hứng khởi, tương lai mở ra trước mắt'.
Hoàn cảnh và điều kiện khác nhau dẫn đến ý thức cách mạng của những người lính ngày càng phức tạp, không đơn giản như thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Trong 'Đồng chí', tình đồng chí, đồng đội được đề cao như là điều quan trọng nhất. Trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', chúng ta mới thấy nổi lên ý chí, tinh thần yêu nước:
'Xe không ngừng chạy về phía Nam
Chỉ cần trong xe có một trái tim'.
Những cảm nhận về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính rất ấn tượng
Sống giữa chiến trường, với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mỹ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khổ và còn trường kỳ nữa. Vậy nên chiếc xe hàng trên con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:
'Bếp Hoàng câm đứng giữa trời
Chung bát đũa là gia đình đấy'.
Và điểm khác nhau cơ bản giữa hai tác phẩm chính là phong cách thơ của hai tác giả. Chính Hữu sử dụng phong cách hiện thực - lãng mạn để mô tả hình ảnh những người lính thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, với nhiều khó khăn và thiếu thốn:
'Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày'.
Cảm hứng lãng mạn ẩn sau cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: 'Đồng chí!' cùng với hình ảnh thơ mơ 'đầu súng trăng treo'. Bài thơ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' lại được xây dựng với phong cách lãng mạn - hiện thực. Khó khăn và thiếu thốn không bị lảng tránh:
'Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.'
'ừ thì có bụi'
'ừ thì ướt áo',....
Trong 'Đồng chí' của CH, nhà thơ tạo nên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng, chia sẻ những khó khăn, cực nhọc trong cuộc sống kháng chiến đầy gian nan, thiếu thốn. Bài thơ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của PTD lại mô tả tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, yêu sống tinh nghịch với đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mỹ.
Mặc dù có sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối, nhưng những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của những người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.
Vì tiếng gọi của non sông, họ bỏ lại phía sau 'giếng nước gốc đa', những con phố, căn nhà và những người thương yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn, tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không sợ nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:
'Súng bên súng, đầu sát bên đầu'
'Xe tiếp tục hành trình vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một tâm hồn'.
Họ đoàn kết, sát cánh bên nhau, đồng lòng chiến đấu dũng cảm. Trong Đồng chí, họ thắm thiết nắm lấy bàn tay nhau; trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, hình ảnh đó quen thuộc: 'Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi'.
Không quan trọng thiếu thốn hay khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn lạc quan, yêu đời hơn. Bản lĩnh đó là tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm. Đó là sức mạnh đoàn kết tại nơi mà sự sống và cái chết gần kề. Sống và chết, trong trái tim mỗi người lính, không có khái niệm ấy. Bàn tay giao cảm diễn đạt thay lời:
'Phút chia tay, chỉ cần nắm lấy tay mình
Điều chưa nói, bàn tay đã thể hiện' (Lưu Quang Vũ)