Mẫu văn số 1
Từ đầu đến cuối câu chuyện, nhân vật tôi là người bạn, là điểm tựa tinh thần của lão Hạc. Ý tưởng của nhân vật này giúp độc giả hiểu sâu hơn về con người lão Hạc. Nhân vật lão Hạc thể hiện sự cao quý, tôn trọng thực sự qua con mắt của nhân vật tôi.
Điều thú vị trong tác phẩm này là tác giả đã cố ý làm mê hoặc ngay cả những người thân thiết như ông thầy vẫn có thể hiểu lầm về lão Hạc. Sự thật mà nhân vật tôi cố gắng hiểu, cố gắng theo dõi mới thấy rõ bản chất con người của Lão Hạc. Khi nghe Binh Tư nói lão Hạc xin ăn cơm của chó, ông thầy bất ngờ, nghi ngờ: “Một người đáng kính như vậy giờ cũng phải theo đuổi việc ăn uống à? Cuộc sống đôi khi thật đáng buồn biết mấy”. Chi tiết này đẩy tình huống truyện lên cao trào. Nó đảo lộn ý nghĩa tốt đẹp về ông thầy và độc giả sang một phương diện khác: Một người lão Hạc với tinh thần cao quý, nhân từ cuối cùng cũng bị vấn đề ăn uống biến tướng, thay đổi như thế nào? Nếu như Lão Hạc đã như vậy thì niềm tin vào cuộc sống, vào ông thầy sẽ vỡ tan như chiếc ly thủy tinh nát vụn.
Nhưng khi chứng kiến cảnh tử vong đau đớn vì ăn thịt chó của lão Hạc, ông thầy mới thực sự rơi vào cảm xúc: “Không! Cuộc sống không phải lúc nào cũng đáng buồn hoặc cũng đáng buồn theo một cách khác”. Ở đây, câu chuyện đạt đến điểm cao trào, cho phép tâm tư của ông thầy trào dâng theo dòng suy nghĩ chân thành, sâu sắc về lão Hạc và người dân nông thôn… “Chao ôi! Đối với những người xung quanh ta, nếu không cố gắng hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ dốt nát, ngớ ngẩn, nghèo đói, xấu xa … chỉ thấy lý do để ghét bỏ, không bao giờ thấy họ xứng đáng được yêu thương, không bao giờ thương thương”.
Có lẽ đây là triết lý sống kết hợp với cảm xúc sâu sắc của Nam Cao. Trong cuộc sống, chúng ta cần có một trái tim biết rung động, chia sẻ, biết yêu thương, che chở cho người khác, cần phải nhìn nhận những người xung quanh mình một cách tổng thể, phải nhìn bằng ánh mắt của tình thương.
Đối với Nam Cao, con người chỉ đáng được gọi là con người khi biết đồng cảm với những người xung quanh, biết phát hiện, trân trọng, bảo vệ những điều đáng quý, đáng thương. Để làm được điều này, con người cần biết đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể của người khác để thấu hiểu đúng, thật sự thông cảm cho họ.
Chuyện được kể từ góc nhìn thứ nhất, nhân vật tôi trực tiếp kể lại toàn bộ câu chuyện, khiến cho độc giả cảm thấy như câu chuyện đang xảy ra ngay trước mắt. Qua nhân vật tôi, Nam Cao đã lồng ghép tâm trạng con người vào câu chuyện của mình.
Đau đớn, bi thương nhưng không u mê, vẫn giữ niềm tin vào con người. Nam Cao chưa bao giờ khóc vì khốn khó, cảnh nghèo của bản thân nhưng lại rơi nước mắt cho tình người, tình đời. Khó phân biệt được giọt nước mắt của lão Hạc và giọt nước mắt của ông thầy: Khi nhỏ giọt, khi đọng lại, khi rơi lã chả, khi khóc nức nở. Thậm chí, nước mắt còn nằm trong nụ cười: Cười đắng, cười nhạt, cười và ho sòng sọc, cười như mếu …
Việc tác giả đóng vai nhân vật tôi làm cho cách kể trở nên linh hoạt, từng lời kể dịch chuyển qua mọi góc cạnh không gian, thời gian, kết hợp giữa kể và mô tả, ký ức với việc biểu hiện cảm xúc chân thành và triết lý sâu sắc…
Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm của mọi thời đại, bi kịch của cuộc sống hàng ngày đã trở thành bi kịch bất diệt. Con người với những gì cao quý, thấp kém đều có trong tác phẩm. Thông qua nhân vật tôi, tác giả đã đánh thức một lời kêu gọi: Hãy cứu lấy con người, hãy bảo vệ nhân phẩm con người trong cuộc đời đầy sóng gió, luôn sẵn sàng hủy hoại phẩm chất và đạo đức. Vì thế, khi tìm hiểu về tác phẩm, chúng ta cần phải đặt nhân vật tôi ở một vị trí xứng đáng hơn.
Một ví dụ khác
Đọc truyện 'Lão Hạc', ta gặp phải nhiều loại con người, nhiều cái số phận khác nhau, và bao mảnh đời đáng thương. Lão Hạc và cậu con trai 'phẫn chí' đi làm phu đồn điền cao su, ông giáo và người vợ, Binh Tư và thằng Mục, thằng Xiên,... Dù trong bóng tối của cuộc sống và sự cô đơn sau những ngày sống ở xóm làng quê bùn lầy, ta vẫn thấy được một chút ánh sáng trong tâm hồn nhân hậu của họ, một tấm lòng chứa đựng tình thương yêu quý. Bên cạnh nhân vật lão Hạc là ông giáo, một nhân vật để lại ấn tượng mạnh mẽ với mỗi người trong chúng ta, là hình ảnh của người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
Không biết tên thật của ông, hai tiếng 'ông giáo' đã thể hiện vị thế của một con người trong làng quê trước năm 1945, được nhiều người kính trọng và tôn trọng. Hai tiếng 'ông giáo' từ miệng lão Hạc luôn đầy vẻ thân thiện, kính trọng và trọng vọng: 'Cậu Vàng đã mất, ông giáo ạ',...'Vâng, ông giáo rất dạy đàng! Đối với chúng tôi thì thế là hạnh phúc'..., 'Tôi ở đây, tôi kính ông giáo!'.
Hãy quay ngược thời gian, trở về tuổi trẻ của ông giáo. Là một người luôn cố gắng, đam mê, sống vì một lý tưởng đẹp với những ước mơ lớn lao. Ông đã từng trải qua nhiều gian khổ, lăn lộn trong Sài Gòn, 'hòn ngọc Viễn Đông' của thời kỳ đó, để làm ăn, học hỏi, và xây dựng sự nghiệp. Chiếc vali 'chứa đầy những cuốn sách' được ông giáo rất quý trọng; những kỷ niệm về những đam mê và khát vọng tốt đẹp của tuổi trẻ, sau hơn sáu mươi năm vẫn làm cho chúng ta cảm động và trân trọng một cái tôi đẹp.
Người 'đầy chữ nghĩa' ấy lại sống trong cảnh nghèo khổ. Sau một cơn bệnh nặng ở Sài Gòn, ông đã bán hết quần áo, chỉ còn lại một vali sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bấy nhiêu, thì ông giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi vì những quyển sách ấy đã làm cho cuộc đời của ông 'sáng sủa như bình minh' khi còn trẻ, làm cho cuộc sống trở nên sắc nét và đáng sống, sống hết mình, 'trong sạch, biết yêu và biết hận'.
Cảnh nghèo vẫn đeo bám ông giáo mãi mãi, 'ông giáo khổ trường tư'. Vận rủi cứ đến như ông nghĩ: 'Đời người ta không chỉ khổ một lần'. Sách vẫn tiếp tục bị bán. Chỉ còn lại 5 quyển sách với lời nguyền: '... dù phải chết cũng không bán đi'. Như một kẻ buôn bán máu. Khi đứa con thơ bị chứng kiết lị gần chết, ông giáo đã phải bán đi 5 quyển sách cuối cùng, cái tài sản quý giá nhất của người trí thức nghèo. 'Lão Hạc ơi! Ta có thể giữ lại một chút gì cho mình không?', lời than này truyền đi vẻ đáng kính của một nhân cách tốt khi đối mặt với khó khăn: biết sống và dám hy sinh cho cuộc sống!
Ông giáo là một người trí thức có trái tim nhân hậu đáng quý. Ông là điểm tựa tinh thần, niềm an ủi và niềm tin của lão Hạc. Ông giáo là nơi mà lão Hạc có thể chia sẻ mọi nỗi đau, mọi nỗi buồn. Từ việc đọc một lá thư, việc viết một lá thư cho đứa con trai đi làm phu đồn điền. Chia sẻ về mảnh vườn và về việc đứa con trai 'phẫn chí' không lấy được vợ. Chia sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên,... Có những lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang... 'Lúc tắt lửa tối đèn có nhau'. Ông giáo đã cảm thông, đã thương xót, đã chia sẻ với lão Hạc toàn bộ tình người của mình. Ai từng là độc giả của Nam Cao, chắc chắn sẽ không quên được đoạn đối thoại này:
... Tôi nhìn lão với nỗi buồn, nói:
- Cuộc đời mỗi người đều thế thôi, ông ạ! Ông nghĩ tôi sung sướng hơn ư?
- Đúng thế, nếu cuộc đời mỗi người đều phải khổ cả, thì ta nên làm gì để sống thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm chặt vai gầy của lão, nói:
- Không có cuộc đời nào thật sự sung sướng, nhưng có điều này là thật sự sung sướng: bây giờ ông ngồi xuống đây, chơi phản này, tôi sẽ đi luộc vài củ khoai lang, nấu một ấm chè thơm nồng; chúng ta cùng nhau ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Đó mới là sướng.
- Vâng! Ông giáo rất dạy đàng! Đối với chúng tôi thì thế là hạnh phúc'...
Ông giáo đã yêu thương lão Hạc 'như thể thương bản thân mình”. Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để 'âm thầm giúp đỡ' khi biết lão Hạc đã nhiều ngày chỉ ăn rau, ăn khoai, ăn củ ráy... Trong khi con cái của ông giáo cũng đang đói; hành động đó mới thực sự cao đẹp trong tình cảm con người!
Ông giáo nghèo nhưng đức độ rất lớn. Trước khi ăn bữa chó, lão Hạc đã gửi ông giáo 30 đồng để dành cho việc lễ tang, gửi lại ông giáo ba sào đất cho đứa con trai... Cảnh đó cho thấy lão Hạc tin tưởng ông giáo. Ông giáo là người mà lão Hạc đã 'chọn làm người gửi vàng. Trong một xã hội bị mờ ám vào thời kỳ đó, việc một người phụ nữ hy sinh bản thân để mua đứa con gái lên bảy tuổi và một con chó (Những ngày thơ ấu), vợ của một kẻ chủ đất áp bức, bóp nghẹt người phụ nữ khốn khổ để mua đứa con gái lên bảy tuổi và một con chó (Tắt đèn), một kẻ cha lãng mạn ăn cắp đất của chị gái quê mình (Đồng hào có ma)..., chỉ khi đó ta mới thấy được niềm tin và sự tôn trọng của người khốn khổ đối với ông giáo thực sự là thánh thiện.
Trước cái chết 'khủng khiếp' của lão Hạc, cái chết 'đau đớn và đột ngột', chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu... Ông giáo lặng lẽ trước bia mộ người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt nước mắt là những lời hứa của một người tốt bụng, đáng kính: 'Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Hãy yên tâm và nhắm mắt lại! Đừng lo lắng cho vườn của mình. Tôi sẽ giữ cho bạn. Khi con trai của bạn trở về, tôi sẽ trao lại cho hắn và nói với hắn: Đây là mảnh vườn mà ông của bạn đã dành cả cuộc đời để giữ gìn; ông thà chết còn hơn là bán đi một phần nào đó...”.
Cùng với ông giáo Thứ trong 'Sống mòn', Điển trong 'Trăng sáng', nhân vật 'tôi' trong 'Mua nhà', hình ảnh của ông giáo trong truyện 'Lão Hạc' đã phản ánh được tâm hồn và tài năng của Nam Cao trong việc xây dựng nhân vật - một nhà văn nghèo, ông giáo khổ cực - trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo nhưng trong sáng, quảng giao và nhiệt tình, ôm ấp những ước mơ đẹp, sống nhân hậu, nhân từ. Có người nói rằng, ông giáo là một nhân vật tự truyện, mang trong mình dấu ấn của Nam Cao. Quan điểm đó thực sự rất thú vị.
Trong truyện 'Lão Hạc', ông giáo không chỉ là một nhân vật, mà còn là người kể chuyện. Mặc dù không phải là nhân vật chính, nhưng sự hiện diện của ông giáo đã làm cho 'Bức tranh quê' ngày xưa trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật ông giáo là chiếc gương phản chiếu cuộc sống và tâm hồn của lão Hạc, đã làm cho truyện ngắn này trở nên đặc biệt và đáng quý.