Đề bài: Cảm xúc đặc biệt của Nguyễn Duy khi gợi nhớ về người bà trong bài thơ Đò Lèn
Cảm xúc đặc biệt của Nguyễn Duy khi hồi tưởng về người bà trong bài thơ Đò Lèn
I. Tổ chức cảm xúc của Nguyễn Duy khi nghĩ về người bà trong bài thơ Đò Lèn (Chuẩn)
1. Khởi đầu
- Mở đầu tinh tế - Giới thiệu bài thơ 'Đò Lèn' - Đánh giá tổng quan về người bà
2. Phần chính
- Những khổ thơ mở đầu: Bà là nguồn tình thương vô tận, bảo vệ và dạy bảo cháu lớn, truyền đạt những giá trị tốt lành, đưa cháu khám phá những hành trình tâm linh tuyệt vời...(Tiếp theo)
>> Xem chi tiết Dàn ý Cảm xúc của Nguyễn Duy khi nghĩ về người bà trong bài thơ Đò Lèn tại đây.
II. Bài văn mẫu Cảm xúc của Nguyễn Duy khi nghĩ về người bà trong bài thơ Đò Lèn
Tình cảm gia đình là một giá trị quý giá và thiêng liêng. Tuy nhiên, chúng ta không luôn nhận ra điều này để trân trọng những người thân quanh mình. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã trải qua điều này. Trong bài thơ 'Đò Lèn', ông chia sẻ những tình cảm và hồi ức về người bà yêu thương. Đọc thơ, người ta có thể cảm nhận được người bà của tác giả, một người phụ nữ đầy vất vả, sống cuộc sống nhọc nhằn để lo cho đứa cháu nhỏ. Bên trong bà là tình yêu thương vô tận dành cho đứa cháu.
Người bà của nhà thơ hiện diện ngay từ khổ thơ đầu:
'Thuở bé tôi cùng bà ra cống Na câu cá, Níu váy bà đi chợ Bình Lâm, Bắt chim sẻ tại tai tượng Phật, Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.'
Ký ức tuổi thơ trỗi dậy trong tâm trí tác giả. Thời thơ ấu, ông đã theo bà đến chợ Bình Lâm để buôn bán. Không chỉ vậy, ông còn chia sẻ những khoảnh khắc tới lễ chùa, thắp hương tại những nơi linh thiêng cùng người bà thân thương.
Ngay từ khi còn nhỏ, tác giả đã hành hương cùng người bà đến những địa điểm linh thiêng như chùa Trần, nơi mà hình ảnh người bà hiện lên như một linh hồn tĩnh lặng và đẹp từ bên trong. Mặc dù có những trò chơi tinh nghịch như 'bắt chim' và 'ăn trộm nhãn' khiến cho những ký ức trở nên đầy vui vẻ, nhưng những khoảnh khắc đó chắc chắn là những niềm vui khó quên của nhà thơ Nguyễn Duy.
Thời thơ ấu là khoảnh khắc êm đẹp bên người bà. Các kí ức dần hiện lên qua những dòng hồi ức đong đầy cảm xúc của tác giả:
'Thuở nhỏ tôi đến đền Cây Thị, Bước chân lên đất, đi đêm xem lễ đền Sòng, Mùi huệ trắng quyện với khói trầm thơm lắm, Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.'
Tác giả là người duy nhất cảm nhận rõ tình yêu thương mà người bà dành cho mình. Bà luôn dắt theo đứa cháu nhỏ khi đi đâu, đưa tới những nơi linh thiêng như 'đền Cây Thị', 'đền Sòng' - nơi mà tâm hồn được tĩnh lặng. Nhà thơ quen thuộc với không khí thiêng liêng, mùi huệ trắng kết hợp với mùi trầm thơm nồng. Tâm hồn của ông đã trở nên thấu hiểu và quen với sự thiêng liêng trong không gian văn hóa đậm chất tôn giáo.
Cô đồng, với những điệu nhảy hầu đồng, là một phần quan trọng của văn hóa và tín ngưỡng dân gian. Hình ảnh 'cô đồng' với đặc trưng 'lảo đảo' mang lại không gian văn hóa phong phú và độc đáo. Trong thời thơ ấu, tác giả chỉ là một cậu bé ham chơi, yêu thích những điều mới mẻ và vui nhộn, chưa thể hiểu rõ ý nghĩa thiêng liêng của những hành động tín ngưỡng. Nhưng những bước nhảy cô đồng, tiếng hát văn, mùi huệ trắng và khói trầm hương đã trở thành những ký ức không thể nào quên trong tuổi thơ của tác giả.
'Tôi không biết bà tôi cuộc sống như thế nào, bà mò cua xúc tép ở đồng Quan, bà đi gánh chè xanh Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn, Tôi giữa hai thế giới hư thực, giữa bà và tiên phật, thánh thần. Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng, ngửi thơm mùi huệ trắng hương trầm.'
Khổ thơ thứ tư, Nguyễn Duy chân thành thể hiện cảm xúc trước sự vất vả của bà. Những công việc mà bà thực hiện, từ 'mò cua xúc tép' đến 'gánh chè', rồi đi 'Quán Cháo, Đồng Giao', là biểu tượng của sự đồng lòng và cống hiến không ngừng nghỉ. Bà không chỉ làm một công việc, mà làm nhiều công việc khác nhau, thể hiện lòng hi sinh cao cả và tận tụy của người mẹ. Những nỗ lực đó không chỉ là nỗi khổ cực mà còn là vẻ đẹp của sự hy sinh thầm lặng.
Trong đôi mắt của người cháu, bà trở nên như một đấng tiên phật, thần thánh. Với người cháu, những đau thương và đồng lòng của bà vì cháu giống như ân phước của Phật đối với chúng sinh.
'Bom Mỹ rơi xuống nhà bà tôi, nhà bay đi mất, đền Sòng mất, chùa chiền bay hết cả, thánh tượng Phật đều rủ nhau bay đi. Bà tôi không chùn bước, bán trứng ở ga Lèn.'
Lúc này, người bà của tác giả hiện lên với tinh thần dũng cảm và gan dạ. Bom Mỹ phá hủy, ngôi nhà nhỏ của bà bay mất, cuốn theo cả cuộc sống tâm linh thiêng liêng. Nhưng bà, với tinh thần mạnh mẽ như những bà mẹ anh hùng Việt Nam, không chịu khuất phục trước vũ khí hiện đại của quân địch.
Bà chuyển sang công việc mới là 'bán trứng' để duy trì cuộc sống. Người bà không bao giờ biểu hiện sự mệt mỏi trước cuộc sống khó khăn, ngược lại, bà trở nên dũng cảm hơn, là điểm tựa vững chắc cho đứa cháu nhỏ.
Dù khi còn nhỏ chưa thấu hiểu hết về bà, khi trưởng thành, đặc biệt là khi phải 'đi lính', nhà thơ đã hiểu rõ và cảm nhận sâu sắc hơn về người bà của mình. Mặc dù bà đã ra đi mãi mãi, nhưng chính điều đó khiến bà mãi mãi sống trong ký ức và tâm trí của người cháu.
Qua bài thơ 'Đò Lèn', nhà thơ Nguyễn Duy truyền đạt hình ảnh của người bà, kết nối với nỗi niềm yêu thương và nhớ nhung đặc biệt dành cho người phụ nữ này. Bà, với tình yêu và quan tâm đặc biệt đối với đứa cháu nhỏ, đã hy sinh và lao động hết mình chỉ để đảm bảo cuộc sống no đủ cho đứa cháu. Ngoài ra, bà còn trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, một hình ảnh dũng cảm, kiên cường vượt qua khó khăn, bom đạn mà không sợ hãi. Hình ảnh người bà sẽ mãi mãi hiện hữu trong tâm trí của người cháu và những người đọc bài thơ này.
"""""HẾT"""""
Bài thơ 'Đò Lèn' của nhà thơ Nguyễn Duy là một tác phẩm cảm động, tôn vinh vẻ đẹp thiêng liêng của tình cảm bà cháu. Đồng thời, bài thơ mở ra không gian để độc giả cảm nhận và tìm hiểu sâu hơn về người bà trong tâm hồn của tác giả. Để hiểu rõ hơn về cảm xúc của Nguyễn Duy khi nghĩ về người bà trong bài thơ Đò lèn, độc giả có thể tham khảo bình giảng, soạn bài, và phân tích hình ảnh người bà trong Đò Lèn.