Cánh chuồn chuồn (Odonata) là một nhóm côn trùng gồm khoảng 4.500 loài, chia thành hai nhóm chính: chuồn chuồn ngô (Anisoptera) và chuồn chuồn kim (Zygoptera). Chúng khác nhau chủ yếu về tư thế cánh khi đậu và hình dạng ấu trùng. Chuồn chuồn là động vật không xương sống thuộc lớp sâu bọ của ngành chân khớp.
Đặc điểm
Chuồn chuồn có đầu tròn và lớn, bao phủ phần lớn bởi hai mắt kép to, cùng với các chân bắt mồi hiệu quả khi bay. Hai cánh dài, mỏng và trong suốt, cử động độc lập. Hệ thống gân cánh dày đặc với nhiều gân ngang, phức tạp; phần bờ trước của cánh có mắt cánh giúp điều chỉnh rung động, giữ cánh vững chắc. Thân bụng dài, miệng kiểu nghiền, chân mảnh hướng về phía trước. Râu nhỏ, hai đốt và lông nhỏ phân đốt. Phần phụ hậu môn nằm ở đốt bụng thứ ba hoặc thứ tư (đối với con đực), thứ hai (đối với con cái); cơ quan sinh dục ở đốt bụng thứ chín; cơ quan giao cấu thứ sinh ở đốt thứ hai (đối với con đực).
Loài chuồn chuồn lớn nhất hiện nay là chuồn chuồn kim khổng lồ Trung Mỹ, Megaloprepus coerulatus và Anax strenuus, một loài đặc hữu ở quần đảo Hawaii. Trong quá khứ, từng tồn tại loài chuồn chuồn có sải cánh dài tới 60 cm, với hóa thạch có niên đại 285 triệu năm.
Hiện có khoảng 4.500 loài chuồn chuồn được biết đến. Ở Việt Nam, có hơn 500 loài. Phần lớn chuồn chuồn là côn trùng có ích, là thiên địch ăn thịt nhiều loài sâu hại cây trồng và ruồi, muỗi.
Môi trường sống
Chuồn chuồn là côn trùng biến thái không hoàn toàn. Thiếu trùng chuồn chuồn sống trong nước và được gọi là con cơm nguội hay con mày mạy, tùy theo vùng miền còn có nhiều tên khác như chăn mày. Khi trưởng thành, chuồn chuồn sống trên cạn và thường thấy gần đầm, ao hồ. Tuy nhiên, cũng có nhiều loài sống xa môi trường nước.
Sinh sản, vòng đời
Trứng chuồn chuồn được đẻ trên mặt nước hoặc trên cành, lá thủy sinh gần ao, hồ, và các khu vực ẩm ướt hoặc trong mô cây dưới nước. Trứng nở thành tiền ấu trùng sống nhờ dinh dưỡng trong trứng, sau đó biến thái thành thiếu trùng và lột xác khoảng 9-14 lần. Thiếu trùng là loài ăn thịt tham lam, thở bằng mang và săn mồi trong nước, kể cả cá con. Chúng tiếp tục lột xác, thường vào lúc hoàng hôn, để trở thành chuồn chuồn biết bay, màu sắc chưa hoàn thiện. Con trưởng thành có khả năng sinh sản. Con đực có cơ quan giao cấu gần phía sau ngực, chứa túi tinh. Giao phối bằng cách dùng móc ở đuôi để giữ con cái và con cái uốn cong thân để nhận tinh. Nếu không tìm được nơi phù hợp, chúng sẽ tìm cách khác để đẻ trứng và giao phối.
Phân loại
- Odonatoptera
- Bộ Chuồn chuồn Odonata
- Phân bộ Chuồn chuồn Epiprocta
- Phân thứ bộ Chuồn chuồn ngô Anisoptera
- Phân thứ bộ Epiophlebioptera
- Phân bộ Chuồn chuồn kim Zygoptera
- Liên họ Calopterygoidea
- Họ Chuồn chuồn kim cánh rộng Calopterygidae
- Họ Chlorocyphidae
- Họ Diphlebiidae
- Họ Euphaeidae
- Họ Polythoridae
- Họ Thaumatoneuridae
- Liên họ Coenagrionoidea
- Liên họ Hemiphlebioidea
- Liên họ Lestoidea
- Liên họ †Lestinoidea
- Phân bộ †Aeshnoptera
- Phân bộ †Epiproctophora
- Phân bộ †Isophlebioptera
- Phân bộ †Trigonoptera
Lịch sử
Chuồn chuồn từng được xếp chung với các loài phù du (Ephemeroptera) và một số loài khác vào lớp Côn trùng cánh cổ (Palaeoptera). Tuy nhiên, cách sắp xếp này có vẻ như cận ngành. Điểm chung giữa chuồn chuồn và phù du là cử động và điều khiển của bộ cánh (xem chi tiết tại bay (côn trùng)).
Trước đây, Anisoptera được xếp vào một phân bộ bên cạnh phân bộ thứ ba là Anisozygoptera (chuồn chuồn cổ). Tuy nhiên, Anisoptera hiện được hạ cấp xuống thành một cận bộ thuộc phân bộ Epiprocta sau khi người ta phát hiện Anisozygoptera thực chất là một nhóm cận ngành bao gồm hầu hết các nhánh đã tuyệt chủng trong quá trình tiến hóa của Anisoptera (Lohmann 1996, Rehn 2003).
Chuồn chuồn hiện nay chia thành hai nhóm lớn:
Chuồn chuồn ngô (Anisoptera)
Những loài này đặc trưng bởi cánh trong suốt, không cuống và không đều (cánh trước hẹp hơn cánh sau), mắt kép lớn sát nhau, thân bụng dài, bay nhanh, ấu trùng tròn và không mang (hệ ống khí thẳng).
Chuồn chuồn ngô được chia thành các họ sau dựa trên hệ thống gân cánh phức tạp:
- Họ Gomphidae
- Gomphus
- Onychogomphus
- Lindenia
- Paragomphus
Họ Cordulegastridae
- Cordulegaster
Họ Aeshnidae
- Aeshna
- Anax
- Brachytron
- Boyeria
- Caliaeschna
- Hemianax
- và các loài khác.
Họ Corduliidae
- Cordulia
- Epitheca
- Somatochlora
Họ Macromiidae
- Macromia
Họ Libellulidae
- Crocothemis
- Leucorrhinia
- Libellula
- Orthetrum
- Platetrum
- Sympetrum
-
- Trithemis
Chuồn chuồn kim (Zygoptera)
Chuồn chuồn kim thường nhỏ hơn, cánh trước và sau giống nhau, đầu ngắn, mắt xa nhau. Chúng bay chậm hơn chuồn chuồn ngô và khi đậu, cánh dựng thẳng góc với thân (trừ chi Lestes cánh xòe ra).
- Họ Platycnemididae
- Platycnemis
- Họ Coenagrionidae
- Ceriagrion, tiêu biểu là Ceriagrion tenellum
- Coenagrion
- Enallagma
- Erythromma
- Ischnura
- Nehalennia
- Pyrrhosoma
- Họ Lestidae
- Lestes
- Sympecma
- Họ Calopterygidae
- Calopteryx
Văn hóa dân gian
Có câu tục ngữ Việt Nam rằng:
- Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay báo hiệu bão.
thú vị
- Chuồn chuồn bay thấp báo mưa,
- Bay cao trời nắng, bay vừa trời âm u.
Cũng có một câu đồng dao Việt Nam như sau:
- Chuồn chuồn cắn rốn, bốn ngày thành thạo bơi lội, với 'niềm tin' rằng nếu ai bị chuồn chuồn cắn vào rốn thì sẽ học được bơi lội trong bốn ngày.
Bắt chuồn chuồn là trò chơi yêu thích của trẻ em vùng nông thôn Việt Nam vào mùa hè, kèm theo các câu đồng dao như:
- Chuồn chuồn có cánh thì bay, Có thằng cu Tí tay bắt chuồn.
- Chuồn chuồn có cánh thì bay, Có thằng trộm bắt mày đi tu...
Tại Trung Quốc từ thời nhà Thương, có một món đồ chơi gọi là chuồn chuồn tre. Người ta làm từ mảnh tre mỏng như cánh quạt máy bay trực thăng, khoan lỗ ở giữa, gắn trục tre. Khi chơi, xoay trục mạnh bằng hai tay, chuồn chuồn tre sẽ bay lên không trung.
Tại Việt Nam, cũng có những món đồ chơi chuồn chuồn làm từ lá cây, kim loại... và thường được bày bán ở vỉa hè hoặc các cửa hàng lưu niệm.