(Mytour) Ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh không phải ai cũng hiểu hết, có người hiểu thì áp dụng, còn người không hiểu thì chỉ đơn giản là đọc kinh mà thôi. Mặc dù vậy, việc này vẫn có công đức nhưng chưa nhiều.
Bát Nhã Tâm Kinh là bài kinh được viết bằng tiếng Sanskrit, là một trong những bài kinh quan trọng nhất, được dịch ra nhiều ngôn ngữ và lan truyền rộng rãi trong các nước Đông Nam Á. Việc chỉ tụng mà không thấu hiểu ý nghĩa của kinh là một thiếu sót lớn theo lời dạy của Phật pháp, vì trong mọi việc cần có sự thấu hiểu để đạt được kết quả như mong muốn.
Sau đây, chúng tôi giải thích đơn giản nhất về việc tụng kinh niệm Phật thành tâm.
Nội dung về Bát Nhã Tâm Kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu sắc Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhìn thấy năm tầng nghĩa không, thấu đạt cơn khổ khó. Xá Lợi Tử, không có màu sắc khác biệt, không biệt thự sắc, màu sắc thì thấy không, không thấy thì có màu sắc, sống lâu dài thực hành, bảo vệ chân chính như vậy.
Ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh:
Quán Tự Tại Bồ Tát: Trong Phật giáo, Bồ Tát là tên gọi cho những người tu tập, với mục đích đạt được bậc đẳng Phật. Trong kinh, Đức Phật cũng gọi mình là Bồ Tát khi Ngài tu tập khổ hạnh.
Hành thâm: Thực hành sâu sắc trong định, kiểm toàn trí tuệ.
Bát nhã Ba la mật đa thời: Tâm trí thấu hiểu đến cùng, ngụ ý ngài đã đi qua mọi giai đoạn tu tập, đạt tới bờ giải thoát, và đã hiểu rõ bản thể của Ngũ uẩn là trống không.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không: Chiếu là nhìn thấy. Chiếu kiến là sự soi sáng, hiểu rõ vấn đề, để nhận biết rõ ràng rằng Ngũ uẩn đều là trống không, Bồ Tát hiểu biết sâu sắc.
Giai không: Giai là tất cả. Giai không là tất cả đều là trống không để nhìn thấy Danh và Sắc đều Vô thường và Vô ngã.
Ngũ uẩn giai không: Ngũ uẩn bao gồm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hợp thành con người. Đức Phật giảng rằng mỗi khối này không thường hằng, không cố định nên nó trống không, được gọi là Vô ngã.
Ngũ uẩn giai không: Ngũ uẩn bao gồm Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hợp thành con người. Đức Phật giảng rằng mỗi khối này không thường hằng, không cố định nên nó trống không, được gọi là Vô ngã.
Ách là chiếc gông buộc ngang đầu con bò, nơi mà nỗi đau khổ đè nặng lên, được gọi là khổ ách. Đây là con đường duy nhất giúp thoát khỏi khổ nạn.
Mở rộng Trí để nhận biết rằng Xá Lợi Tử (Quảng Trị):
Sắc không bất dị Không: Sắc (Đất, nước, gió, lửa. Hoặc là thân) không khác với Danh (Thọ, tưởng, hành, thức. Hoặc là không sắc). Rộng hơn, có nghĩa là không phải Thân đang xét đều có tính chất chung là Không trường tồn (Vô Thường) và Không có tự tánh (Vô Ngã).
Không bất dị Sắc: Danh (Không sắc) không khác với Thân đang xét hoặc thân khác (Sắc) đều là vô thường và vô ngã như nhau.
Sắc không bất dị Không, Không bất dị Sắc: Theo Khoa học, Sắc là vật chất, chúng ta cho rằng nó cứng cỏi, vững bền, nhưng thực tế nó là kết quả của sự kết hợp giữa nhiều nguyên tử. Theo Phật giáo 'Sắc không bất dị Không, Không bất dị Sắc' từ Không của vế đầu là tỉnh từ trống không, trống rỗng. Từ Không của vế thứ hai là danh từ Sự Trống Không, Sự Trống Rỗng có nghĩa là 'Vật chất không khác với Không, Không cũng không khác với Vật chất', bởi vì bản chất của vật chất là trống không.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều tồn tại như thị: Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều như vậy.
Hãy mở rộng Trí để nhận biết rằng Xá Lợi Tử! (Quảng Trị):
Không tướng, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm: Tướng là những gì biểu lộ ra bên ngoài, được gọi là tướng. Tướng theo tục ngữ là dấu hiệu bề ngoài, giác quan có thể nhận ra. Để nhận thức rõ ràng mọi sự vật hiện tượng đều không cố định (không tướng, do nhân duyên hình thành), không tự sinh, không tự diệt, không dơ bẩn, không tinh khiết, không tăng, không giảm.
Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức: Nỗ lực nhận biết rõ Tính Không để không bị ràng buộc bởi Sắc, không bị ràng buộc bởi Danh (Thọ, Tưởng, Hành, Thức).
Không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: Không bám vào sáu căn.
Không chấp vào Lục thức: Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
Không vướng vào sự thấy trong tam giới (Dục, sắc, vô sắc): Vô nhãn giới
Cho đến không vướng chấp ý vào tam giới: Nãi chí vô ý thức giới
Cũng vậy không còn không sáng suốt, chấm dứt vô minh (mê muội) cho đến không còn già chết nữa, tức chấm dứt sự già chết: Vô Vô minh diệc, vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận
Không còn phải Khổ, không còn những yếu tố gây khổ – Tập đeo bám nữa, không còn phải lo Diệt khổ nữa, không còn phải tu Bát Chánh Đạo nữa: Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo
Trí là trí tuệ, cũng không đạt được cái gì. Nếu nói có cái Trí đạt, tức là chưa đạt, vì còn Ta và đối tượng, còn năng sở, còn cái Ngã, thì làm gì có đạt. Không còn vướng vào suy nghĩ (trí) nữa, không còn đắc thành, không còn phải bám vào sự đắc thành nữa: Vô Trí diệc vô Đắc, dĩ vô sở đắc cố
Cố Phát Tâm Bồ Tát tỏa sáng cùng với Trí Bát Nhã đúng đắn đến cùng cực: Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố
Tâm không còn vướng mắc vào mọi chướng ngại nữa: Tâm vô quái ngại
Không còn phải cố gắng để vượt chướng ngại nữa: Vô quái ngại cố
Tâm không còn bị rối loạn nữa: Vô sở hữu khủng bố
Vĩnh viễn cắt đứt điên đảo mộng – tưởng, đó là cứu cánh Niết bàn: Viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn
Mọi sự tu tập để đạt Giác Ngộ (chư Phật) trong tam giới (tam thế giới): Tam thế chư Phật
Cần cố gắng hành trì đúng đắn hoàn hảo đến cùng cực: Y Bát nhã Ba la mật đa cố
Đạt đến thành tựu được tuệ giác viên mãn: Đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề
Cố gắng thấu quán tính Bát Nhã đến cùng cực: Cố tri Bát nhã Ba la mật đa
Bằng cách tập trung (chú) tinh thần rộng khắp: Thị đại thần chú
Tập trung tỏa sáng Tâm Bồ Đề rộng khắp: Thị đại minh chú
Nhận thức đúng không còn chấp vào sự tối cao: Thị vô thượng chú
Tập trung một cách đúng đắn không chấp bình đẳng đó là bình đẳng: Thị vô đẳng đẳng chú
Phát công năng giúp chúng sanh tiêu trừ mọi khổ nạn, đó chính là lẽ thật không hoại: Năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư
Cố gắng thuyết giảng Tính Không đến tận cùng: Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú
Nghĩa là: Tức thuyết chú viết
Ba-la-tăng thuyết chú: Ba-la yết-đế, yết-đế, Bồ-đề tát-bà-haKinh Bát Nhã bằng tiếng Việt
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi tu hành sâu rộng về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thấy rằng năm uẩn đều là không, vì thế vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Xá Lợi Tử ơi, sắc không khác gì không, không không khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.
Xá Lợi Tử ơi, tướng không của các pháp ấy không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Do đó trong cái không ấy, không có sắc, không có thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh, nhưng cũng không phải là không còn vô minh. Không có già chết, nhưng cũng không phải là không còn già chết.
Không có khổ, không có tập, không có diệt, không có đạo.
Không có trí cũng không có đắc, bởi vì không có sự đắc được.
Khi các Bồ Tát dựa vào trí tuệ Bát Nhã này, tâm không còn gặp chướng ngại, và do đó không còn sợ hãi, có thể xa lìa được sự điên đảo mộng tưởng, đạt được cứu cánh Niết Bàn.
Các Phật ba đời nhờ tu tập theo trí tuệ Bát Nhã này mà đạt được quả vô thượng, sự chánh đẳng và chánh giác.
Vì vậy phải hiểu rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là linh chú vĩ đại nhất, là ánh minh cao thượng nhất, là linh chú vô thượng, luôn xua tan mọi khổ não, là sự thật không hư dối.
Khi nhắc đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng nghĩa là phải cất lời chú:
'Yết Đế, Yết Đế, Ba la Yết Đế, Ba la tăng Yết Đế, Bồ Đề tát Bà Ha' (3 lần).
Video trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh có chữ dễ đọc theo, dễ hiểu:
Nguyệt Minh
Video trì tụng Bát Nhã Tâm Kinh có chữ dễ đọc theo, dễ hiểu:
Nguyệt Minh