Mùa lá rụng trong khu vườn của nhà văn Ma Văn Kháng là một tác phẩm thể hiện qua hình ảnh gia đình ông Bằng, tác giả đã thể hiện rõ sự lo lắng sâu sắc trước những thay đổi của thời đại đương thời.
Dưới đây, chúng tôi xin mời quý vị cùng tham khảo tài liệu Câu chuyện Mùa lá rụng trong khu vườn. Tài liệu sẽ cung cấp thông tin về nhà văn Ma Văn Kháng, hoàn cảnh sáng tác, cũng như cấu trúc và nội dung của câu chuyện ngắn này.
I. Giới thiệu về tác giả Ma Văn Kháng
Thông tin cá nhân
Đinh Trọng Đoàn, hay còn gọi là Ma Văn Kháng, sinh năm 1936, quê quán tại phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
Lúc 14 tuổi, Ma Văn Kháng tham gia tổ chức thiếu niên xung phong và sau đó được gửi đi học tập tại khu học xá Việt Nam ở Trung Quốc. Năm 1960, ông theo học khoa Văn tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông trở về dạy tại tỉnh Lào Cai và bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình.
Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn lớn của thế hệ đã trải qua chiến tranh giành độc lập chống lại thực dân Mỹ. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học và nghệ thuật. Ông đã được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2001.
Hành trình văn chương
Ma Văn Kháng là một nhà văn có sức sáng tạo phong phú. Ông đã sáng tác nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn nổi tiếng. Một số tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm:
Đồng bạc trắng hoa xoè (tiểu thuyết, 1979), Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983), Mùa lá rụng trong khu vườn (tiểu thuyết 1985), Ngày đẹp trời (tập truyện ngắn 1986), Đám cưới không có giấy tờ giá thú (tiểu thuyết 1989), Trăng soi sân nhỏ (tập truyện ngắn, 1994), Một chiều giông gió (tập truyện ngắn, 1998)...
Phong cách Văn học
Ma Văn Kháng là một nhà văn có khả năng khám phá nhiều chủ đề đa dạng. Phong cách văn của ông luôn mang tính nhẹ nhàng, tập trung vào cốt truyện và các tình huống ly kỳ.
Ông đã chia sẻ về phong cách sáng tác của mình: “Nhiều người nói rằng tôi giỏi viết truyện ngắn, đặc biệt là về miền núi. Truyện ngắn của tôi thường có những yếu tố đặc biệt. Kể từ những năm 80, khi nói đến đời sống đô thị, truyện của tôi thường đậm chất liệu thực tế. Tôi có thể khai thác được cả hai chủ đề này. Trong nghệ thuật, truyện ngắn của tôi đã khá thành công trong việc thử nghiệm các thể loại. Tôi cảm thấy mình có duyên với việc viết truyện ngắn. Tuy vậy, tôi cũng yêu thích việc viết tiểu thuyết, không chỉ là 'văn của mình' mà còn là một thử thách lớn. Viết tiểu thuyết cần phải có một cảm xúc sống động, một tư duy sáng tạo, một bản lĩnh viết văn kiên định và một vốn từ phong phú”.
II. Tác phẩm Mùa lá rụng trong khu vườn
1. Bối cảnh sáng tác
- Truyện được lấy từ phần II của cuốn tiểu thuyết cùng tên.
- Tác phẩm được viết khi Ma Văn Kháng trở về Hà Nội và đất nước đang trải qua những biến động lớn sau chiến tranh. Các nỗ lực đổi mới ấy đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng gia đình - những tế bào nhỏ của xã hội.
2. Cấu trúc
- Phần 1 (từ đầu đến bệnh này chị ơi): chị Hoài và sự quay trở về trong ngày ba mươi Tết
- Phần 2 (tiếp sau phải ra đi): ông Bằng khi gặp lại con dâu
- Phần 3 (phần còn lại): mọi người trong gia đình ông Bằng tham gia lễ cúng tất niên
3. Tóm tắt nội dung tác phẩm
Nghe truyện Mùa lá rụng trong khu vườn:
Cầu ước được, ước mơ hiện hình. Một người phụ nữ mà Lý và Phượng cùng ao ước hiện ra, như đã thấy ngay trước cổng nhà, đúng lúc cả nhà đang vui mừng trong buổi lễ tất niên chiều ba mươi Tết.
Nghe tiếng chuông điện, Phượng chạy ra cửa. Trước hai cánh cổng sắt, một phụ nữ nông thôn xuất hiện, khoảng năm mươi tuổi, vóc dáng thon gọn trong chiếc áo bông trắng nhẹ nhàng. Chiếc khăn len nâu bao quanh khuôn mặt rạng rỡ với đôi mắt hai mí đậm nét và nụ cười tươi tắn. Người phụ nữ kia cầm một cái túi tay nặng nề, vừa mới từ ga xe lửa về, không có bất kỳ dấu hiệu bỡ ngỡ, nhưng trong đôi mắt đó, có sự run rẩy.
Phượng mở cánh cửa sắt, lấp lánh nói:
- Bác… bác đến hỏi gì ạ? À, liệu rằng bác có phải là… là chị Hoài không ạ?
- Cô Phượng à?
Phượng quay đột ngột lại, hét to:
- Chị Hoài! Lên nào, anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!
Tình huống xảy ra quá bất ngờ! Đông, Lý, Luận vội vã từ phòng khách lao ra đường lát xi măng đi qua vườn cây ra cổng, nhìn thấy chị Hoài đúng là thật nhưng vẫn còn lơ mơ, nửa tin nửa ngờ. Chị Hoài ơi! Lên đây trong chiều ba mươi Tết! Quả thật là ngoài sức tưởng tượng! Trong tâm trí vẫn còn hình ảnh chị Hoài, chị Hoài, vợ của anh cả Tường, người lính hiến dâng. Chị Hoài, người con dâu đầu tiên, dịu dàng, thanh lịch. Trong tiềm thức vẫn còn tồn tại một hình ảnh chị Hoài tuyệt vời, tuyệt vời. Nhưng hiện giờ chị Hoài đã có một gia đình mới với những mối quan hệ mới, lo toan riêng, nên vẫn nhớ, vẫn trân trọng, vẫn yêu quý chị, nhưng lại không dám, không muốn kéo chị trở lại bên mình. Mối quan hệ của chị ở đây đẹp nhưng cũng buồn. Chị có quyền quên đi mà không bị ai trách móc. Thế mà, thế mà lúc này chị lại đứng trước cổng.
Phượng hồi hộp, nồng nhiệt:
- Em vui quá, chị Hoài ơi. Để em cầm cặp cho chị.
Lý ôm chặt người phụ nữ từng là dâu trưởng, rưng rức nói:
- Thật là linh tính đấy. Chị coi em nói có thần không? Em vừa nói: Ước gì chị Hoài hiện ra ngay bây giờ!
- Đã hơn chục năm rồi chị Hoài không lên Hà Nội đâu. - Luận nói.
Chị Hoài phản ứng nhanh:
- Sai rồi! Đám cưới của chú và cô Phượng, chị còn lên dự đó. Chỉ mới được chín năm thôi. Bận lắm. Nhà nông không bao giờ hết việc. Ông đâu rồi?
Luận tỏ ra rất thông thạo:
- Tháng này đã trồng cấy ở đâu chị? Ông ở trên nhà, có lẽ sắp xuống rồi.
- Nhưng vẫn phải thu hoạch khoai tây. Còn có cuộc họp Đại hội nữa. Dự định đi từ sớm hôm kia, nhưng công việc dồn dập quá.
Trong phòng khách đã sắp xếp đầy đủ bàn cúng. Đông pha trà, Lý với chị Hoài sẵn lòng cúng cơm.
- Không mang được gì lên đâu. - Chị Hoài cười. - Cái Ngoan, thằng Tùng cứ nhét vào và nói: Mẹ đi nhanh, không ông buồn, các chú, các cô chờ đợi! Đây là gạo nếp tăng sản của nhà. Cái giò thủ anh ấy gói đây. Ông thích ăn giò thủ lắm, cô Lý ạ. Còn bọc này là sắn dây. Trẻ con nó giã, nó rây đấy. À cái giống mướp hương này thơm ngon và to quả lắm. Cô Phượng mang đi gieo. Gieo đêm nay là tốt nhất đấy. Ở nhà, trồng bên bờ ao, có quả hai cân bảy kia. Ờ, để nó leo dài theo bờ tường. À, ông thợ mộc còn ở đâu không? Mấy đứa con thì sao? Chú Đông tóc bạc nhưng vẫn khỏe mạnh nhỉ! Cháu Dư có hay viết thư về không? Cô Lý nhìn không nhận ra nữa. Trẻ trung như cô gái mười tám tuổi ấy!
Lý nhấp mắt, với đôi má phồng phồng, nói lắc đầu:
- Ông Đông chuẩn bị trở thành hình tượng của ông Di Lặc rồi, chị ạ. Còn em, bệnh ấy chị ơi…
Bậc cầu thang vang lên tiếng ba toong rống. Phượng và Luận vội vã chạy ra từ dưới cầu thang.
Ông Bằng đã bước xuống hết bậc cầu thang. Đã đến lúc phải xuống cúng, cũng là lúc ông nghe tin chị Hoài lên. Ông cố đi với sự nhanh nhẹn. Trông ông cao hơn, gầy hơn so với ngày thường, nhưng trang trọng hơn, chỉnh chu hơn, mặc dù vẫn là bộ comlê đen kẻ sọc mờ, cài khuy chéo. Có lẽ do gương mặt ông phản chiếu sự cảm xúc của con người trước mặt năm mới, cũng như vì con mắt ông đã vượt qua căn bệnh, sáng dậy, gạt bỏ vẻ già nua, tàn tạ và nỗi lo âu còn in sâu trên trán, và nếp da chùng ở hai bên cằm.
Ông dừng lại khi nhìn thấy Hoài, khuôn mặt ông hiện lên một chút kinh ngạc. Rồi đôi mắt của ông nhấp nhô liên tục, môi ông mở ra nhưng không phát ra tiếng, có cảm giác như ông sắp bật khóc.
Hoài dường như mất kiểm soát bản thân, bà lao về phía ông Bằng, quên hẳn đôi dép, những bước chân to béo, gót nứt nẻ thâm đen, bước lên nền đá lạnh, chỉ kịp dừng lại khi cách ông già hai hàng gạch hoa.
- Ông ơi!
Người phụ nữ phát ra một tiếng kêu như tiếng khẽ rơi. Và giọng của ông Bằng đột nhiên trở nên ồn ào, khàn khàn:
- Hoài à, con à?
Phượng quay mặt đi, đôi mắt tràn ngập nước mắt không thể nhìn vào cảnh gặp gỡ, không thể chịu đựng cảnh đôi gót chân nứt nẻ của chị Hoài, trái tim như bị vấn đau, những cơn sóng nước dồn lên trong lòng như muốn vỡ tung, và nỗi đau chạnh lòng cứ thế tiếp tục đến tận cùng.
Ông Bằng kìm nén xúc động, lấy khăn tay lau nhẹ mắt:
- Con cái anh, cháu nó còn khoẻ chứ, con?
- Thưa ông, bốn cháu con vẫn khỏe mạnh, ông ạ. Cháu trưởng mới về từ biên phòng Hà Tuyên, giờ tham gia sản xuất ở làng. Cháu thứ hai học lớp mười, cháu gái thứ ba học lớp tám, cháu út học lớp sáu. Nhà con, cảm ơn ông, vẫn bình yên. Anh ấy giờ làm việc ở ủy ban xã. Có lẽ anh ấy cũng lên thăm ông vào dịp này. Còn các cháu nữa, bốn đứa, mỗi đứa đều muốn đi. Đặc biệt là thằng lớn, nó lúc nào cũng trông mong đến cơ hội được ghé thăm ông ở Hà Nội, lần này nó rảnh rỗi nên phải đi…
Câu chuyện của người phụ nữ nông thôn với vẻ kề cà đã làm dịu đi không khí căng thẳng của cuộc gặp. Lý hí hửng sắp xếp xong bàn cúng, từ ghế đẩu nhảy xuống, vỗ nhẹ hai bàn tay trước mặt ông Bằng, trầm trồ nói:
- Ông ơi, con nghĩ thế này, còn nhiều chuyện để trò chuyện, sau này còn thảo luận. Giờ, mời ông tiếp tục khấn lễ cúng gia tiên nhé.
Mọi người ra đi, để trống một khoảng trống lớn trước bàn thờ. Ông Bằng sửa lại hàng khuy áo, chỉnh lại nơ cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ.
Hương thơm lan tỏa, tạo ra một lớp khói mờ phảng phất. Hai chiếc bánh chưng bọc lá xanh tươi, buộc kỹ càng, xếp cạnh mâm ngũ quả và những chén rượu đẹp mắt đặt rải hàng ngang trước bàn thờ. Ngọn đèn dầu phát ra ánh sáng vàng nhẹ nhàng vào dãy khung ảnh treo sát tường. ảnh cặp vợ chồng ở giữa; bên trái, ảnh bà Bằng với khuôn mặt trắng nõn, tóc buộc bằng khăn nhung, bên phải, ảnh anh cả Tường với bộ quần áo truyền thống, mũ calô nghiêng, nét mặt trầm tĩnh đã già đi.
Nhìn lên mái tóc bạc phơ, dòng tóc mỏng đã chuyển sang màu trắng, ông Bằng đặt hai tay chắp trước ngực. Khói hương và bức tranh yên bình đưa ông trở về quá khứ. Trong chốc lát, ông Bằng như lãng quên tất cả xung quanh và bản thân. Trong ông, nỗi xúc động sâu lắng và quen thuộc nảy lên, và ông bỗng cảm thấy tâm hồn mình như đang lạc vào thế giới của những hình ảnh rõ ràng hoặc mơ hồ, như trong giấc mơ. Ông vẫn cảm nhận được sự sống của tổ tiên và những người đã khuất, và họ luôn bên cạnh con cháu. Ông vẫn nhớ lời dạy của tổ tiên, ông cha, ông mẹ. Ông vẫn ghi nhớ công ơn của gia đình, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, và ông cảm nhận sự sống, sự bình an của con cháu, con cái kế thừa truyền thống văn hóa. Và vợ ông, cùng con trai cả. Dù họ đã ra đi nhưng họ vẫn sống trong ông, vẫn luôn bên ông, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, hỗ trợ và dìu dắt ông cùng các cháu, con cái, cháu nội…
Trong khoảnh khắc của sự biết ơn và xúc động với tổ tiên và những người đã khuất, ông Bằng trôi vào những kỷ niệm vàng son, thoát khỏi thế giới hiện tại. Tuy nhiên, quá khứ không bao giờ rời xa hiện tại, tổ tiên luôn ở bên cạnh con cháu, tạo thành một liên kết vững chắc và bền bỉ. Vì vậy, khi quay trở lại với thực tại và nhìn vào những người đang sống và khoảnh khắc hiện tại, mắt ông bỗng cảm thấy đau đớn. Ông vội cúi xuống, lật bật những lời cầu khấn kính trọng và run rẩy:
- Hôm nay, ngày ba mươi tháng Chạp năm Bính Tuất, buổi tất niên, con cùng với những người con trai, con gái, tôn tử…
Theo dõi lời cha, Luận bất ngờ bấm vào tay Đông. Khuôn mặt Luận biến đổi. Rõ ràng khi cha kể tên các con trai, ông cụ đã bỏ qua tên của Cừ. Lý lo lắng không yên, sau đó nói nhỏ với chị Hoài, vui vẻ: 'Chị ơi, em biết khấn đúng bài kinh của nhà Phật rồi'.
Ánh mắt của chị Hoài đắm chìm nhìn lên bàn thờ. Và khi ông Bằng vừa buông tay, lau mắt, rút tay ra, chị ngay lập tức thế chân trước mặt ông cụ, đưa hai tay lên ngực.
° ° °
Đó thực sự là một bữa tiệc rất hoành tráng trong thời kỳ đất nước đang trải qua nhiều khó khăn, sau hơn ba mươi năm chiến tranh và so với thu nhập hạn chế của cán bộ, công nhân viên chức ngày nay.
Trên bàn, cành hoa quất cắm vào cỗ để tăng thêm sự trang trí cho bữa ăn, là một mâm cỗ phong phú, đa dạng với các món ăn. Ngoài những món truyền thống như gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu lòng gà, súp lơ xào thịt bò… - mỗi món đều thể hiện sự khéo léo trong việc chuẩn bị - còn có những món đặc biệt như gà quay ướp húng lìu, vịt tần hạt sen, chả chìa, mọc, vây…
Đặc sản tuyệt vời nhất, mà có lẽ Lý muốn thể hiện khả năng nấu nướng và tấm lòng của mình nhất ở đó, là các món vịt tần, vây và mọc, đặc biệt là món mọc. Chị đã rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng khi chuẩn bị món này. Thăn vịt được lựa chọn kỹ càng, nghiền thật mịn thay vì dùng giò sống, chị trộn với mộc nhĩ, nấm hương, rồi tạo thành từng viên tròn đều. Nước dùng trong suốt và tinh khiết. Và chính chị vớt và phân phối đều cho mỗi tô.
Mọi người chen chúc vào bàn ăn, vui vẻ hơn bao giờ hết.