Câu chuyện ngắn Chiếc thuyền ở xa kia của Nguyễn Minh Châu chứa đựng một bài học quan trọng về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa chiều, phát hiện ra bản chất thực sự đằng sau vẻ đẹp bên ngoài của một hiện tượng.
Hôm nay, Mytour sẽ giới thiệu tài liệu về Nguyễn Minh Châu cũng như câu chuyện ngắn Chiếc thuyền ở xa kia. Các bạn học sinh có thể tham khảo ngay sau đây.
Câu chuyện về Chiếc thuyền ngoài xa
Nghe truyện Chiếc thuyền ngoài xa tại đây:
Trưởng phòng của tôi là một người sâu sắc, đồng thời cũng rất sáng tạo đến mức làm cho chúng tôi trong cơ quan cảm thấy mệt mỏi vì những ý tưởng mới của anh.
Cách đây khoảng vài tháng, để chuẩn bị cho lịch năm sau, anh ấy đã thể hiện sự không hài lòng với cách làm việc của chúng tôi - Năm sau chúng ta sẽ tạo ra một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển cho mỗi gia đình - anh ấy nói một cách quyết định - Hãy bỏ đi cái lối làm mọi thứ một cách riêng lẻ. Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. Mỗi tháng sẽ có 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có con người. Hoàn toàn là thế giới của các vật tĩnh.
Chúng tôi mang theo máy ảnh, suy nghĩ, lựa chọn cảnh quay, và chụp suốt năm tháng. Và tất cả những gì chúng tôi thu được từ ánh sáng đen trắng trên giấy ảnh, giờ đây đang được sắp xếp gọn gàng trên hai bàn, và tôi thực sự cảm thấy hài lòng, không cần phải mang theo máy ảnh để chụp thêm như mọi năm nữa.
Lớp khói thuốc lá cuộn tròn trước đôi mắt sáng suốt của trưởng phòng, người đang nhìn chằm chằm qua cặp kính già. Bất ngờ, ông quay lại nhìn tôi và hỏi:
- Bây giờ là tháng mấy rồi nhỉ?
- Đang là tháng bảy. - Tôi trả lời một cách thận trọng.
- Tháng này ở biển vẫn còn sương đúng không?
- Chỉ có bão táp và biển động thôi. Muốn có sương, phải nghĩ đến từ tháng ba đã.
- Ê, anh Phùng - trưởng phòng dường như đã hiểu rõ mọi suy nghĩ không an tâm của tôi, nên ông ấy vừa nói vừa nhăn nhó mặt, toát lên vẻ đau khổ - Tôi cho anh một tháng, có đủ thời gian chứ?... Anh giúp tôi thêm một cảnh buổi sáng có sương đi.
- Trời ơi - tôi nhìn thấy một bức ảnh ngay trong tầm tay - với hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu như thế này mà anh... - Đẹp thì đẹp đúng là thế - ông ấy cắt lời tôi - Và đặc biệt là còn có cảm xúc. Thực sự, năm nay các bức ảnh của các anh khác biệt so với những năm trước, tôi thích mỗi tấm ít nhiều. Nhưng không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn còn thiếu một tờ.
Trong cuộc sống, mọi thứ đều như vậy, con người bản tính thường lười biếng, đôi khi ta rơi vào hoàn cảnh buộc phải làm, không khéo lại không làm được gì.
Năm ngày sau, tôi đã đến một vùng biển cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Tôi mang máy ảnh đến một dải bờ cát mà thiên nhiên đã tạo ra vào thời điểm sáng sớm, khi mặt trời mới mọc, và lúc đó những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè bắt đầu hiện ra trong sương mù của bình minh.
Thực ra, trong chuyến đi này, tôi muốn quay lại thăm một khu vực chiến đấu cũ, nơi tôi có một người bạn cùng quê, cùng đồng đội từng sống với nhau trên rừng A So, người từng là một trung đội phó bộ binh nổi tiếng với tính đùa cợt, nhưng bây giờ, ôi trời ơi, ở ngay khu vực biển đó, anh ta đang thực hiện một công việc... nghiêm túc đến mức không ai có thể tưởng tượng, và thực tế là anh ta đã làm được hai ba năm nay. Cuộc đời của chúng tôi, những người lính từng chiến đấu trong thời kỳ chống Mỹ, từ sau chiến tranh, có không ít câu chuyện kỳ quặc và bất ngờ.
Thực ra, đó chưa phải là biển mà chỉ là một vùng đất trải dài vào đất liền, như một trò chơi trốn tìm giữa các thôn làng, khu dân cư và chợ, trong một khu vực rộng lớn hàng chục cây số. Không phải nói, những vùng nước mà tôi mới đến với máy ảnh để chụp bổ sung cho bộ sưu tập thực sự là đẹp mắt, đặc biệt là vào tháng bảy khi còn có sương mù. Ở đây, nếu bỏ qua những bãi xe tăng bị bỏ lại từ thời 'tháng ba bảy nhăm' (gần mười năm trước, đã bị nước mặn ăn mòn và gỉ sét), vùng đất này thật sự là một bức tranh phẳng lặng và tươi mới như làn da của mùa thu đang ôm vào tâm hồn tôi. Tôi say mê vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, màu xám đậm đặc, trời thấp xuống và như ngưng lại; giữa trời và nước, chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vớ bè đang tỏa khói bếp giữa phá - chiếc thuyền đứng im như được làm bằng gỗ dán vào cảnh vật êm ả.
Trong hai ngày đầu tiên, tôi suýt nữa quyết định đưa vào lịch tháng bảy cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước. Đó là một chiếc thuyền mới mới được hoàn thành với mùi gỗ và mùi dầu nồng nàn. Tôi đã chọn một đứa bé khoảng năm tuổi, có ngoại hình của một người con trai trong một gia đình làm nghề chài, với đôi mắt đen sâu thẳm khiến tôi liên tưởng đến đôi mắt trên đầu mũi thuyền, đứa bé đánh cần, lội ra giữa những đợt sóng lớn vung tay ra xa để thả lưới. Trên bờ, cha mẹ và những người lớn khác đứng xếp hàng, đứng hai bên mắt nhìn con thuyền mới. Tôi chỉ cần chụp mô tả những vai trần của ngư dân cùng với những bàn chân to bè của họ đặt lên cát.
Tuy nhiên, tôi nhanh chóng từ bỏ cảnh đẩy thuyền ra nước với không khí sôi nổi và hùng vĩ. Thất bại rõ ràng là vì tôi không thể chụp được khoảnh khắc chiếc thuyền đâm xuống nước và vỡ tung từng bọt sóng trắng bạc.
Tôi cũng quyết định không chọn cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà đã đề xuất, mặc dù có những đêm thật thú vị, tôi thường ngủ ngay giữa bãi cát gần bờ, theo lời mời rủ của một đứa trẻ mặt xấu xí nhưng với trí nhớ phi thường, là cháu của một người làm nghề sơn tràn ở rừng A So, hai ông cháu cùng điều khiển một chiếc xe Reo của gia đình để vận chuyển gỗ bán cho xưởng đóng thuyền. Trong những đêm như vậy, đứa trẻ từ trên rừng xuống và tôi như hai nhà triết học hiền lành nằm cạnh nhau, nhìn chăm chú vào cảnh sương đêm trắng, chờ đợi một tiếng kêu nhỏ phát ra từ đám sương mịt mờ trên cao, nghe như là tiếng vọng về từ một thời hồng hoang, một thời mà xung quanh vùng biển này chỉ có tiếng sóng vàng và tiếng lau vỗ, không có con người.
Cuối cùng, sau khi tìm kiếm và lùng sục, mang theo máy ảnh lang thang suốt một tuần, tôi quyết định chọn cảnh thuyền đánh cá vào buổi sáng. Ai làm nghề chụp ảnh cũng biết rằng đó là một cảnh chụp rất phổ biến - một chủ đề đã được nhiều người thực hiện, đã để lại những bức ảnh tuyệt vời, đầy tinh tế của các nhiếp ảnh gia nổi tiếng.
Điều gì khiến tôi dám thách thức bản thân bằng việc mạo hiểm như vậy? Có lẽ không chỉ vì sự hấp dẫn của cảnh đẹp, mà còn vì những âm thanh sôi động xa xa từ nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè. Tôi nghe thấy tiếng hoạt động như ma quỷ ấy vào những đêm tối đen và chỉ nghe thấy khi sáng dần, khi thằng Phác - thằng bé từ rừng 'hạ sơn' trở về, đè nặng lên vai tôi sau khi kể cho tôi nghe về cuộc sống của loài chim trong rừng, trước mùa thu, trước cả thời tiết lạnh cóng, chúng đã sẵn sàng di cư.
Không phải chỉ trong những ngày đầu tiên khi mới đến, mà sau này, khi đã chụp hết một cuốn phim, tôi mới thấu hiểu chút ít về cuộc sống lâu dài của những thuyền đánh cá này. Họ luôn kết nối vào một đêm hoặc một ngày, không lâu. Thường mỗi thuyền đều là một gia đình, ngoài ra còn có một số thuyền nhỏ để di chuyển. Cuộc sống trên biển luôn thú vị và tự do. Họ kết hôn, sinh con, và thậm chí cả lúc chết cũng chỉ trên chiếc thuyền. Không có hàng xóm. Quê hương của họ trải dài hàng chục dặm, không phải một miếng đất cụ thể nào.
Một buổi sáng tôi thức dậy. Bầu trời đã sáng dần. Sao đã lặn hết. Những đám mây hình vỏ sò dần rực sáng, trong khi mặt biển dù đã sáng, nhưng màu sắc tối tăm, tiếng sóng đã yên lặng. Trên bờ, một nhóm thuyền vừa tắt đèn. Những mạng lưới treo giữa thuyền đã tắt, nhưng tiếng la hét vẫn vọng về. Đó là tiếng của những người đang xua cá vào lưới. Phần lớn là phụ nữ và trẻ em, họ ngồi trên những chiếc thuyền nhỏ, mát mẻ. Một số thuyền chạy đến từ mọi phía. Ở cự ly khoảng trăm mét, tất cả buông chèo và gõ hai cây tre vào thuyền, vang lên tiếng gọi:
- Hới, hới...
Hậu quả của cuộc sống trên biển là sự tự do và sự liên kết mạnh mẽ giữa các gia đình thuyền. Họ sống và làm việc cùng nhau, chỉ cần một vài dây chuyền dài để kết nối cảm xúc và tình cảm trong cùng một đêm hoặc một ngày. Mặc dù không có quê hương cụ thể, họ vẫn tự hào về cuộc sống của mình trên biển.
Trong nháy mắt đó, tôi quỳ trên bãi cát ẩm, máy ảnh sát vào mắt như kẻ săn mồi chờ thời cơ. Tôi chờ đợi khi năm sáu cái lưới vó sẽ dần dần dâng lên.
Tôi bấm máy liên tục. Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã ước lượng trước các tấm ảnh nghệ thuật của mình: một vài chiếc thuyền và một khung cảnh của lưới đầy giọt nước, mỗi mắt lưới như một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho bình minh rực rỡ, với một người phụ nữ đang kéo lưới lên khỏi mặt nước.
Tôi tìm thấy một cấu trúc chặt chẽ và tin vào sự ngẫu nhiên. Tôi nghĩ rằng cho dù bạn có tài năng đến đâu, nếu thiếu sự ngẫu nhiên thì tấm ảnh cũng chỉ là vô hồn.
Đội hình của những người làm việc trôi nổi trên biển tan biến nhanh chóng. Đây là mạng cuối cùng. Trong chớp mắt, trước mặt tôi chỉ còn một mảng nước trống.
Trời đầy mây từ biển bay vào. Mưa rơi nhẹ nhàng. Tôi trốn dưới bánh xích của một chiếc xe tăng, thay phim ảnh. Khi nhìn lên, tôi nhận ra một chiếc thuyền đánh cá đang chèo thẳng đến.
Trong suốt cuộc đời chụp ảnh, tôi chưa bao giờ gặp phải một cảnh vật 'thần thánh' như thế này: trước mặt tôi là một bức tranh tự nhiên tuyệt đẹp, như một tác phẩm nghệ thuật cổ điển. Mũi thuyền in dấu mờ nhòe vào bầu không khí màu trắng như sữa, với vài bóng người ngồi trên đó, tạo nên một cảnh tượng yên bình và tuyệt vời. Tất cả đều hoàn hảo và hài hòa, khiến tôi cảm thấy bối rối và thấm thía.
Không cần suy nghĩ nhiều, tôi đặt máy ảnh lên xe và chụp ảnh, để ghi lại khoảnh khắc hạnh phúc này về sau.
Tôi dự định sẽ trở về ngay hôm nay hoặc sáng mai, nếu không có bạn bè cản lại.
Ngay lúc đó, một chiếc thuyền đâm thẳng vào trước mặt tôi. Một người đàn ông và một người phụ nữ bước ra. Họ phải lội qua một đoạn bãi nước sâu đến đầu gối. Tôi nghe thấy người đàn ông trách móc một cách dữ dội.
Họ không nhìn thấy tôi. Người phụ nữ có vẻ mệt mỏi sau một đêm làm việc, trong khi người đàn ông có vẻ cứng rắn và quyết đoán.
Từ nơi tôi đứng gần chiếc xe tăng với chiếc máy ảnh, đi sâu vào khoảng mười bước, có một chiếc xe rà phá mìn của quân đội Mỹ, to lớn và sáng bóng. Hai người đi qua trước mặt tôi, dừng lại bên chiếc xe. Người phụ nữ nhìn về phía chiếc thuyền trên mặt nước một lát, sau đó nhấc tay lên như muốn sửa tóc nhưng lại buông xuống và nhìn xuống chân.
Lão đàn ông trở nên tức giận, với mặt đỏ bừng, lấy chiếc thắt lưng ra từ quần áo mà hành lính đeo, đánh vào lưng người phụ nữ một cách dữ dội, lặp đi lặp lại những lời nguyền rủa.
Người phụ nữ chịu đựng mọi điều một cách kiên nhẫn, không phản kháng, không chạy trốn.
Tất cả những gì xảy ra khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong một vài phút đầu, tôi chỉ đứng nhìn không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Rồi không biết từ khi nào, tôi đã vứt máy ảnh xuống đất và lao tới.
Một đứa trẻ chạy qua trước mặt tôi. Tôi nhận ra đó là thằng Phác, cậu bé từ rừng trên. Cậu ta không chú ý đến tôi, chạy thẳng về phía người đàn ông và nhảy vào ông ấy như một viên đạn đã nhắm đích.
Cũng giống như người phụ nữ, đứa bé của tôi cũng im lặng như một người điếc, và lúc này tôi biết rằng nó rất mạnh mẽ!
Khi tôi đến, thì chiếc thắt lưng đã ở trong tay của đứa bé, không biết làm thế nào nó đã nắm được chiếc thắt lưng, liền vung lên về phía lão đánh vào giữa ngực trần đầy vết sẹo nắng có những tia lông đen như lông gấu, trải dài từ rốn lên trên. Lão định lấy lại chiếc thắt lưng nhưng không thành công, thay vào đó, lão đánh thẳng vào mặt đứa bé hai cái tát, khiến cho nó ngã xuống cát. Sau đó, lão lặng lẽ rời đi về phía bờ biển mà không nhìn lại, chỉ có lưng trần và vạm vỡ càng trở nên thấp hơn, giống như một con gấu đang tìm kiếm nguồn nước uống.
Người phụ nữ có vẻ như chỉ cảm thấy đau đớn lúc này - đau đớn và cảm thấy rất xấu hổ, nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Người phụ nữ gọi với giọng mềm nhẹ, ngồi xuống trước mặt đứa bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái, sau đó lại ôm chầm lấy. Đến bây giờ, đứa bé vẫn im lặng, như một viên đạn đang xuyên qua trái tim người đàn ông và giờ đang thấm qua tâm hồn người phụ nữ, khiến cho nước mắt rơi, nó nhẹ nhàng sờ nhẹ lên khuôn mặt của người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đựng trong những nốt rỗ chằng chịt.
Đột nhiên, người phụ nữ buông đứa trẻ ra, nhanh chóng rời khỏi bãi cát nơi chiếc xe tăng hỏng đậu, đuổi theo người đàn ông. Cả hai quay trở lại chiếc thuyền.
Sau khoảnh khắc đó, bãi cát trở lại với vẻ hoang sơ và bao la. Giữa tiếng sóng vỗ ngoài khơi làm rì rầm, trong cõi im lặng, chỉ có tôi và đứa bé đứng lặng lẽ giữa bãi cát xe tăng hỏng. Trên tay của đứa bé vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi nhìn ra bãi cỏ ven bờ mà chiếc thuyền đỗ trước đó.
Giống như trong những câu chuyện cổ tích kỳ bí, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.
Tôi tiến về phía đứa bé. Nhưng nó không cho tôi lại gần. Bất ngờ, đứa nhỏ bỗng trở nên căm phẫn với tôi - căm ghét tột cùng. Nhìn vào đôi mắt của nó, tôi cảm nhận được điều đó.
Tại sao tôi không nhận ra trước đây nhỉ, lần đầu tiên tôi nhận ra rằng nó là một đứa bé của biển. Một đám tóc vàng hoe, một phần có màu đỏ như lưới tơ, phát ra mùi của biển, che phủ hầu hết trán nhỏ và đôi mắt đầy ngây thơ, lúc này giống như đôi mắt của một chú hổ con lạc về từ khu rừng sâu.
Sau mấy ngày, Phác đã xem tôi như một người hoàn toàn xa lạ, không một lời trò chuyện, không ngủ chung. Mỗi khi thấy tôi mang máy ảnh trên bãi cát, nó nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thù ghét - và tôi hiểu rằng tất cả lỗi lầm của mình là đã biết được mọi chuyện trong nhà nó, từ thằng bé đáng kỳ lạ nhất mà tôi từng gặp.
Tôi cố gắng tiếp cận nó, thử làm quen lại với nó, con chó sói nhỏ đó, nhưng nó đã trở nên hung hãn và thô lỗ, hét lên trước mặt tôi: “Đi ra! Đi ra!”. Lúc đó, chiếc thuyền lưới vó lại xuất hiện trong sương sớm của một buổi sáng, sau ba ngày trước.
Tất cả lại diễn ra giống như trước. Thuyền đậu ở bờ phá như ngày hôm trước - từ đó, đi bộ đến bãi xe tăng hỏng.
Và giống như trước, người phụ nữ bước xuống trước, khuôn mặt hướng xuống đất, và nhẹ nhàng bước lên bãi cát. Nhưng khi người đàn ông rời thuyền để đuổi theo người phụ nữ, một cô gái cũng nhảy xuống từ phía thuyền, bơi vào.
Cô gái có vẻ khoảng 14, 15 tuổi. Trông cô ta như một cô gái biển, với mái tóc dài xõa vai - nhưng cũng có thể là một cô gái biển chỉ mới 12, 13 tuổi. Nhanh nhẹn và mềm mại như một chú vượn đen trong bộ quần áo đen ướt, cô gái chạy về phía Phác.
Từ lúc nhỏ, thằng bé đã có vẻ tránh né đứa con gái, nhưng không thoát khỏi. Thực sự, đứa con gái lớn hơn và có vẻ khỏe mạnh.
Hai đứa trẻ cãi nhau. Lúc nào đó, thằng Phác đã thoát ra khỏi đứa con gái, muốn bỏ chạy. Nhưng chỉ sau vài bước chạy, đứa con gái đã nhanh chóng giơ tay túm vạt áo thằng Phác, kéo lại.
Con gái - tôi đoán là chị ấy - đã lật thằng bé ra giữa bãi cát, và bất ngờ là đó, từ cạp quần đùi của thằng bé, cô ấy rút ra một vật sáng bóng. Ôi trời ơi, đó chính là một con dao găm.
Đẩu, thằng bạn lái xe cũ đã đến đón tôi ở một trạm xăng. Những người thợ đóng thuyền đã dẫn tôi từ bãi tập về đó chưa đầy một ngày.
Lão chồng - thằng lão đàn ông tàn nhẫn nhất trên thế giới đó - đánh tôi mà không thương tiếc. Tôi đấm lại hắn cũng đã khiếp. Không phải bằng tay của một anh thợ chụp ảnh mà bằng tay sắt của một người lính giải phóng đã từng cầm súng mười năm. Tôi đã chiến đấu trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến này. Dù trong tình huống nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người phụ nữ, ngay cả khi đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng, để hắn đánh.
Đẩu đưa tôi về cơ quan của anh. Y tá của tòa án huyện, một cô gái chưa lập gia đình, trông lớn tuổi và mập mạp, đã nhận lệnh từ thủ trưởng Đẩu mang túi thuốc đến cho tôi.
Dưới ánh nhìn của y tá, những vết thương trên trán tôi như những dấu hiệu của một người anh hùng. Trong khi băng bó cho tôi, cô ấy kể về sự tàn ác của phong tục đánh cá trong vùng này.
- Hãm nhẹ ngọn lửa căm hận, bà chị ạ. Dù sao thì đàn ông cũng cần nhau, đôi khi rất cần - dù là chánh án của tòa án huyện, Đẩu vẫn không từ bỏ thói quen phô trương.
- Thà tôi chết già còn hơn làm gái già suốt đời! - Cô y tá trung niên giơ mũi kéo chĩa vào mặt Đẩu, có một dúm bông đã nhúng cồn. Anh chỉ mỉm cười. Ngay khi tôi đến nhà thì Đẩu đã chìm đầu vào hàng núi hồ sơ. Các vụ kiện tụng. Các vụ án hình sự, từ nhỏ tới lớn, đều có.
Vài ngày sau, những vết thương của tôi đã lành hẳn. Khi xem lại những bức ảnh đã chụp, tôi cảm thấy yên tâm về công việc của mình. Tôi tin rằng nếu chiếc máy ảnh của tôi tiếp tục trung thành, thì tôi có thể chụp bất kỳ bức ảnh biển nào mà tôi mong muốn.
Tôi muốn trở lại xưởng đóng thuyền để nghỉ ngơi với thằng bé một đêm trước khi quay về Hà Nội. Nhưng Đẩu yêu cầu tôi ở lại thêm vài ngày nữa.
Một buổi sáng, có một chiếc mảng chở hai phụ nữ đến bến tòa án.
Tôi cảm ơn Đẩu đã giữ tôi lại. Nếu không có thiếu nữ kia - người mà tôi đã gặp trong bãi xe tăng - thì tôi không thể nhận ra cô ấy. Đó là cô gái đã cãi nhau với thằng Phác để lấy lại con dao găm.
Thiếu nữ mảnh mai trong chiếc áo cánh màu tím nhạt. Mắt cô giống như mắt của một đứa trẻ trưởng thành mà tôi đã thấy khi đang nhìn ra khơi biển - mắt đó giống như mắt của chiếc thuyền mới được xây. Mặc dù tôi không hiểu gì về nghệ thuật điện ảnh, nhưng tôi nghĩ rằng nếu có một vai như nàng tiên cá, thì cô gái này là lựa chọn hoàn hảo. Tôi tự hỏi liệu vẻ đẹp tự nhiên và trong sáng này có thể xuất phát từ một người phụ nữ hàng chài bị đau khổ và mệt mỏi không?
Người phụ nữ dặn con gái ở lại dưới thuyền, sau đó bà bước lên những bậc đá dẫn lên con đường nhựa bị sụt lún, hai bên đường là những chiếc lưới chài, của phố huyện ven biển.
Người phụ nữ vẫn mặc chiếc áo màu bạc phai do nước biển, một miếng vá bằng vải xanh được may trên vai, với những vết rỗ trên mặt, đứng trong phòng làm việc của Đẩu, tôi nhận ra ngay cô ấy. Hôm nay, cô ấy đến từ chiếc thuyền vớt ván 'xâm chiếm' lên đây theo yêu cầu của tòa án huyện.
Đây là lần thứ hai, người phụ nữ được Đẩu mời đến tham gia vào công việc gia đình.
Mặc dù không lần đầu tiên bước vào một nơi làm việc, nhưng người phụ nữ vẫn thấy hồi hộp, lúng túng - cái cảm giác lúng túng, lo sợ mà thậm chí khi đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy.
Người phụ nữ chỉ quen sống giữa đại dương, nay bước vào trong phòng đầy bàn ghế và tài liệu, liền tìm một góc để ngồi.
Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu lườm nhìn chỉ cái ghế mây trước mặt, cố gắng làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi vào đây đi, tại sao lại như thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
Lần thứ hai Đẩu phải nhắc nhở, người phụ nữ mới rón rén đến và ngồi ở mép chiếc ghế, cố gắng thu gọn bản thân.
Đẩu hỏi:
- Vậy chị đã suy nghĩ kỹ chưa?
Người phụ nữ nhìn lên Đẩu, sau đó lại cúi đầu xuống.
- Thưa...
Đẩu gật đầu và đứng dậy. Đột nhiên, anh rời khỏi bàn và đến đứng bên cạnh ghế người phụ nữ, giọng nói trở nên đầy giận dữ, khác hoàn toàn so với giọng của một vị chánh án:
- Mỗi ba ngày một trận nhẹ, mỗi năm một trận nặng. Khắp đất nước không có một người chồng nào giống hắn. Tôi chưa hỏi về tội lỗi của hắn, nhưng tôi muốn nói rằng chị không thể sống với ông ta nữa. Chị nghĩ sao về điều này?
Người phụ nữ nhìn về phía Đẩu, bỗng dưng chắp tay và cúi đầu:
- Con kính thưa tòa án...
- Sao vậy?
- Quý tòa có thể kết án tôi, có thể phạt tù tôi, nhưng xin đừng ép tôi bỏ nó đi...
Khi đó, tôi đang ngồi che mặt sau bức màn vải hoa, ngăn chắn giữa không gian làm việc bên ngoài và phòng ngủ của Đẩu. Sau lời nói của người phụ nữ, tôi cảm thấy không khí trong phòng ngủ của Đẩu bị hút đi, trở nên ngột ngạt. Tôi kéo màn lên và bước ra ngoài.
Người phụ nữ phát hiện ra tôi ngay. Cô xoay người xung quanh ghế như bị cắn kiến, và sau này tôi mới nhận ra rằng cô ấy nghĩ rằng tôi được bố trí ngồi phía sau để làm chứng.
- Xin chị đừng di chuyển! - Đẩu nói, với vẻ hào hứng của một người bảo vệ công lý khi có thêm một người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên và mang lại một chiếc ghế cho tôi. Và lúc đó, trong ánh mắt của người phụ nữ hàng chài, không phải chánh án Đẩu, mà là tôi, với những vết thương vẫn còn trên khuôn mặt, trở về ngồi sau bàn lớn.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách gọi, mặc lên mình bộ dạng của một vị chánh án - chúng tôi luôn theo đuổi nguyên tắc hòa thuận...
Khi đang cúi xuống, người phụ nữ bất ngờ nhìn thẳng vào chúng tôi, từng người một, với ánh mắt ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cảm ơn các vị! - Người phụ nữ bất ngờ nói với một giọng khẩn thiết - Đây là lời chân thành của chị, chị cảm ơn các vị. Các vị tốt bụng, nhưng các vị không hiểu được khó khăn của người làm ăn...
Chỉ trong vài câu nói, người phụ nữ đã thay đổi hoàn toàn cảm xúc, không còn biểu hiện sợ sệt. Cách cư xử khác, ngôn từ khác.
Thực ra, những lời đó, đặc biệt là những lời đó từ một người phụ nữ đang gặp khó khăn, không dễ chịu với chúng tôi. Dù mặt còn trẻ, Đẩu cũng là một vị chánh án. Còn tôi, một người mà mụ phải biết ơn...
Tuy nàng phụ nữ chỉ toát lên vẻ mặt sắc sảo đến mức kích thích sự tò mò của chúng tôi. Bà nhìn ra ngoài cửa sổ bờ phá, nhìn thấy thiếu nữ mặc áo tím vẫn đang ngồi đợi bà trên chiếc mủng.
Trong chốc lát, trước mặt chúng tôi vẫn là một phụ nữ lúng túng, sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm hơn với chúng tôi. Bà bắt đầu kể:
- Tôi từ bé đã xấu, rỗ mặt, sau đó lại mất đi khi lên đến tuổi dậy thì. Gia đình tôi cũng khá giả, từng ở trong con phố này. Vì xấu, không ai trong phố muốn lấy tôi. Sau đó, tôi đã có thai với một anh con trai ở một nhà hàng chài gần đó hoặc anh ta ghé nhà tôi để mua bả và đan lưới. Chồng tôi lúc ấy là một người cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi.
Bà nàng bỗng nhăn mặt, ánh mắt lạnh lùng nhìn xa xăm:
- Nếu tôi ít đẻ hơn hoặc chúng tôi có được một chiếc thuyền lớn hơn, từ khi cách mạng trở về, chúng tôi đã không phải chịu đói nghèo như trước. Trước đây, mỗi khi đứa con gái mới sinh, biển lại động suốt một tháng. Cả nhà tôi, bao gồm cả ông chồng, con cái, phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Tôi cũng phải chịu cảnh nghèo khó, túng quẫn vì trốn tránh quân lính. Nhưng lỗi chính là số phụ nữ ở trên thuyền sinh đẻ quá nhiều, trong khi thuyền lại quá chật.
- Sao không lên bờ mà ở? - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất thì làm sao có thể tiếp tục nghề thủy thủ đâu? Từ khi cách mạng đến nay, chính phủ đã cấp đất cho nhưng chẳng ai muốn rời bỏ nghề thủy thủ được!
- Trên thuyền, ông chồng có khi nào đánh em không? - Tôi hỏi.
- Mỗi khi lão thấy tức giận, lão sẽ đánh em, như bất kỳ người đàn ông trên thuyền nào khác khi uống rượu... Giá mà lão chỉ say rượu... thì em còn có thể chịu đựng được... Sau này, khi con cái lớn lên, em mới có thể đòi hỏi với lão... đưa em lên bờ để đánh...
- Không thể hiểu được, không thể hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Bởi vì các ông không phải là phụ nữ, chưa bao giờ các ông hiểu được nỗi vất vả của người phụ nữ trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Đúng, đúng, bây giờ tôi đã hiểu, - Đẩu bất ngờ trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền cần phải có một người đàn ông... dù hắn có man rợ, tàn bạo?
- Đúng vậy - Người phụ nữ đáp - Cũng có khi biển động sóng gió đấy, phải không?
Sau một thời gian, mụ mới tiếp tục nói:
- Mong các ông cách mạng thông cảm cho, đám phụ nữ hàng chài trên thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống sóng gió, để cùng làm ăn nuôi nấng một đàn con, mỗi nhà đều có trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra phụ nữ để sinh con, rồi nuôi con cho đến khi chúng khôn lớn, cho nên phụ nữ phải chịu đựng cái khổ. Phụ nữ trên thuyền chúng tôi phải sống cho con cái chứ không thể sống cho bản thân như trên đất liền! Mong các ông lượng thứ cho cái sự lạc hậu. Các ông đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt rạng rỡ lên như một nụ cười - hơn nữa, trên chiếc thuyền cũng có những khoảnh khắc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, hạnh phúc.
- Trong cuộc đời chị có khi nào thực sự hạnh phúc không? Tôi bất ngờ hỏi.
- Có chứ, ông! Hạnh phúc nhất là khi tôi nhìn thấy các con của tôi ăn no...
Viên chánh án huyện rời khỏi bàn làm việc để xem qua các tài liệu, giấy tờ. Đẩu đi lại trong phòng, hai tay chui sâu vào túi quần quân phục đã cũ. Một suy nghĩ mới bắt đầu nảy sinh trong đầu vị Bao Công của phố huyện ven biển này, lúc này, anh trông rất nghiêm túc và suy tư.
Người phụ nữ đã rơi nước mắt khi tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình yêu và nỗi đau, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống, dường như mụ không bao giờ để lộ ra bên ngoài. Trong số đám con đông đúc sống dưới thuyền, mụ yêu thương thằng Phác hơn cả, đứa con có tính cách và vẻ ngoài giống hệt người cha đã từng hành hạ mụ, và có lẽ sẽ tiếp tục hành hạ mụ cho đến khi qua đời - nếu không có cách mạng.
Mụ kể cho chúng tôi biết, vì lo sợ thằng bé có thể làm điều ngốc nghếch với cha nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng sống cùng ông nội đã nửa năm nay. Ở với ông ngoại, thằng bé hạnh phúc hơn khi ở trên thuyền với bố mẹ. Nhưng mỗi khi rời đi là nó lại chạy về. Thằng bé nói với những người lão làm thuyền rằng nếu mẹ nó còn ở dưới biển này thì không ai dám đánh mẹ.
Chiều hôm ấy, trong khi Đẩu đang gặp lão đàn ông để giáo dục răn dạy, tôi quay trở lại xưởng đóng thuyền. Vắng Phác, bãi cát và vùng phá nước trở nên trống trải. Đêm đến, những đàn chim di cư vẫn vỗ cánh trong sương, bay qua vùng phá. Tôi mang theo máy ảnh đi lang thang cho đến khuya, mệt mỏi chân tay, rồi ngồi bên ngọn lửa. Nhím phoi bào bắt cháy mấy mảnh gỗ cưa từ lẻ ván của một chiếc thuyền mới vớt được sau vụ đắm thuyền năm ngoái.
Sáng trở gió đột ngột, những tảng mây đen xếp ngổn ngang trên biển đen, biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cao như núi tuyết trắng.
Trong phá, các tàu thuyền đều tìm vào bờ trú, chỉ có một chiếc thuyền vó bè vẫn đậu giữa phá.
Gió rít vòng quanh chiếc xe Reo vừa từ rừng xuống, ông lão ngoài sáu mươi tuổi vẫn theo nghề sơn tráng. Ngồi bên bếp lửa giữa trời, ông đặt hai con mắt lo lắng nhìn ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.
Gió ném tung bếp lửa ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quanh tôi và ông lão. Tôi nhìn vào xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên:
- Chiều này gió mạnh lắm, có lẽ sắp có bão cấp 11 rồi nhỉ?
- Ừ, chắc vậy... ! - Ông lão lẩm bẩm, không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá.
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất hài lòng về tôi.
Không chỉ trong bộ lịch năm đó mà mãi mãi sau này, tấm ảnh của tôi vẫn được treo ở nhiều nơi, đặc biệt là trong các gia đình yêu nghệ thuật. Kỳ lạ thật, mặc dù là ảnh đen trắng nhưng mỗi khi nhìn kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng của ánh sương sớm tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng. Nếu nhìn lâu hơn, tôi luôn thấy người đàn bà kia bước ra khỏi bức ảnh, một người phụ nữ vùng biển với đường nét thô kệch, áo bạc phếch với miếng vá, thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước đi chậm rãi, bàn chân chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
8 - 1983
I. Tóm tắt về tác giả Nguyễn Minh Châu
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) sinh ra ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu những năm 1950, ông gia nhập quân đội và theo học tại trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn.
- Từ 1952 - 1958, ông tham gia và chiến đấu tại Sư đoàn 320.
- Năm 1963, Nguyễn Minh Châu chuyển đến làm việc tại Phòng Văn nghệ quân đội, sau đó chuyển sang làm việc cho tạp chí Văn nghệ Quân đội.
- Trong năm 2000, ông được vinh danh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm đáng chú ý:
- Tiểu thuyết: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972), Lửa từ những ngôi nhà (1977)...
- Tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1987)...
- Các tác phẩm viết cho thiếu nhi: Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Đảo đá kỳ lạ (1985)...
- Tiểu luận phê bình: Trang giấy trước đèn (1994)
II. Giới thiệu về tác phẩm truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
1. Xuất xứ
Trong tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của tác giả Nguyễn Minh Châu (1987), truyện được lựa chọn ra.
2. Kết cấu
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu tới “Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”. Câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài.
- Phần 3. Còn lại. Họa sĩ Phùng nói về bức ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy.
3. Thể loại
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thuộc thể loại truyện ngắn.
4. Tóm tắt
Mẫu 1
Theo yêu cầu từ trưởng phòng, Phùng phải đi về miền Trung thực hiện bộ ảnh để chào đón năm mới. Đây cũng là địa điểm mà anh từng tham chiến trong thời gian chống Mỹ. Sau khi tìm hiểu và quyết định chọn chủ đề cho bộ lịch đó là chiếc thuyền đánh cá trong một buổi sáng bình minh. Khi đã hoàn thành bộ ảnh, anh quay về bờ thì chứng kiến cảnh tượng người đàn ông hàng chài to lớn đang đánh đập người phụ nữ. Đứa con tên Phác chạy ra can ngăn. Cứ thế cảnh tượng đó diễn ra liên tiếp, không thể chịu được Phùng quyết định vào ngăn cản thì bị người đàn ông đánh bị thương nhẹ. Ngay sau đó, Chánh án tên là Đẩu là bạn của Phùng mời người đàn bà hàng chài lên tòa án huyện để giải quyết. Tại đây Đẩu khuyên người đàn bà hàng chài bỏ người chồng vũ phu kia. Người đàn bà giải thích lí do vì sao chồng đánh và kể về người chồng của mình. Phùng và Đẩu hiểu ra rằng mặc cho bị ngược đãi về thể xác nhưng cả người đàn bà và những đứa con cần người đàn ông gánh vác trách nhiệm gia đình và nuôi sống gia đình. Phùng nhận ra rằng nhìn nhận mọi việc đơn giản bằng vẻ ngoài không thôi thì chưa đủ.
Mẫu 2
Nhiếp ảnh Phùng thực hiện một chuyến đi đến miền Trung để chụp một bộ ảnh chuyên đề. Anh quyết định chụp cảnh con thuyền đánh cá trong buổi sáng bình minh. Trong khi đó, anh chứng kiến một người đàn ông hàng chài đang đánh đập một phụ nữ. Không thể nhịn được, Phùng lao vào can ngăn, nhưng lại bị người đàn ông đánh và bị thương nhẹ. Chánh án tên Đẩu, cũng là bạn của Phùng, mời người phụ nữ hàng chài lên tòa án huyện để giải quyết vụ ly hôn. Tại đây, Đẩu khuyên người phụ nữ bỏ chồng vũ phu. Tuy nhiên, người phụ nữ van xin không buộc phải chia tay chồng. Sau cuộc trò chuyện, Phùng và Đẩu nhận ra rằng dù bị hành hạ về thể xác, người phụ nữ và các con cần có người đàn ông chịu trách nhiệm gia đình và lo lắng cho cuộc sống gia đình. Phùng nhận ra rằng, chỉ nhìn vào bề ngoài không đủ để hiểu rõ mọi việc.
5. Nhan đề
Mẫu 1
a. Ý nghĩa tả thực
- Hình ảnh liên quan đến cuộc sống lao động của người dân ở vùng ven biển.
- Một thuyền thú vị liên kết với bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên và cuộc sống của cư dân trong làng chài. “Trước mắt tôi là một tấm tranh độc đáo, một tác phẩm nghệ thuật của quá khứ. Hình dạng của con thuyền hòa mình vào không gian mênh mông của sương mù trắng xóa, tỏa sáng dưới ánh nắng mặt trời chiếu rọi. Cảnh các cư dân, lớn nhỏ, yên bình ngồi trên thuyền như những tượng điêu khắc trên đỉnh sóng, với ánh mắt hướng về bờ.”
b. Ý nghĩa biểu tượng:
- Sự kết nối giữa cuộc sống và nghệ thuật được ẩn dụ trong hình ảnh của chiếc thuyền. Nó là biểu tượng của cuộc sống thực tế, là nơi sinh sống của gia đình ngư dân. Cuộc sống gia đình, với những gánh nặng của nghèo khó, là nguyên nhân khiến người chồng trở nên căng thẳng, thô lỗ và khiến vợ trở thành nạn nhân của sự bạo hành.
- Sự cô đơn của chiếc thuyền, cũng như sự cô đơn của nghệ thuật trên biển cuộc sống, là sự cô đơn của con người trong cuộc sống này. Chiếc thuyền đã làm cho Phùng phát hiện ra những điều đầy ngạc nhiên.
- Qua hình ảnh của chiếc thuyền, tác giả muốn truyền đạt ý niệm rằng vẻ đẹp bề ngoài thường ẩn chứa những khía cạnh khó khăn, mâu thuẫn và mâu thuẫn. Cần phải hiểu vấn đề từ bên trong, đó là cách tiếp cận, cách nhìn của nghệ sĩ chân chính.
Mẫu 2
Nguyễn Minh Châu đã đặt cho tác phẩm của mình tựa đề “Con thuyền ngoài xa”. Đầu tiên, tựa đề mang ý nghĩa mô tả thực tế về hình ảnh của chiếc thuyền liên quan đến cuộc sống lao động của người dân ở ven biển. Chiếc thuyền cũng kết nối với cảnh đẹp tự nhiên và cuộc sống sinh hoạt của cư dân trong làng chài: “Trước mắt tôi là một tác phẩm nghệ thuật của một danh họa thời cổ. Hình dáng của con thuyền mờ mịt hòa mình vào không gian của sương mù trắng xóa, tỏa sáng dưới ánh nắng mặt trời chiếu rọi. Một số người lớn và trẻ con ngồi im lặng như những tượng trên đỉnh mui, với ánh mắt hướng về bờ.”
Bên cạnh đó, tựa đề còn mang ý nghĩa biểu tượng. “Con thuyền” là biểu tượng ẩn dụ cho mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Đó là một chiếc thuyền thực sự trong cuộc sống, là không gian sinh sống của gia đình ngư dân. Cuộc sống gia đình, với những khó khăn của cuộc sống nghèo khó, là nguyên nhân khiến người chồng trở nên căng thẳng, thô lỗ và khiến vợ trở thành nạn nhân của sự bạo hành. Sự cô đơn của chiếc thuyền, cũng như sự cô đơn của nghệ thuật trên biển cuộc sống, là sự cô đơn của con người trong cuộc sống này. Con thuyền đã khiến Phùng phát hiện ra những điều kinh ngạc. Qua hình ảnh của con thuyền, tác giả muốn truyền đạt ý niệm rằng vẻ đẹp bề ngoài thường ẩn chứa những khía cạnh khó khăn, mâu thuẫn và mâu thuẫn. Cần phải hiểu vấn đề từ bên trong, đó cũng là cách tiếp cận, cách nhìn của nghệ sĩ chân chính.
6. Nội dung
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Con thuyền ngoài xa” mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cái nhìn đa chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
7. Nghệ thuật
Cách miêu tả nhân vật, xây dựng cốt truyện hấp dẫn, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo…
8. Mở đầu và kết thúc
- Mở đầu: Nguyễn Minh Châu là một nhà văn được biết đến với nhiều tác phẩm xuất sắc. Trong số đó, truyện ngắn “Con thuyền ngoài xa” là một minh chứng rõ ràng cho phong cách viết của ông. Tác phẩm này được chọn từ tập truyện ngắn cùng tên của tác giả. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và thực tế cuộc sống đằng sau bức ảnh, truyện ngắn “Con thuyền ngoài xa” mang lại một bài học quan trọng về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cái nhìn đa chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bề ngoài của hiện tượng
- Kết thúc: Như vậy, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã mang lại cho độc giả một tác phẩm có giá trị. Truyện ngắn “Con thuyền ngoài xa” chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc và để lại những ấn tượng khó quên trong lòng mỗi người đọc.
III. Phân tích nội dung của truyện Chiếc thuyền ngoài xa
(1). Mở đầu
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
(2). Nội dung chính
a. Tổng quan về tác phẩm
Trong tập truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu (1987), truyện ngắn này được chọn lựa.
b. Hai khám phá của họa sĩ nhiếp ảnh Phùng
* Khám phá về nghệ thuật
- Tình hình: Theo yêu cầu từ trưởng phòng, họa sĩ nhiếp ảnh Phùng đi chụp thực tế để bổ sung một bức ảnh về cảnh biển buổi sáng với sương mù.
- Phùng đã phát hiện ra một “cảnh trời hiếm có”:
- Nhận xét về “một tác phẩm nghệ thuật từ quá khứ”, “Hình dáng của chiếc thuyền được làm mờ... gần bờ”, một vẻ đẹp giản dị và hoàn hảo.
- Đây là cảnh tượng kỳ diệu của tự nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.
- Tâm trạng của họa sĩ Phùng: bối rối trước vẻ đẹp: “cảm giác như có gì đó bóp chặt vào tim”, nhận ra rằng “chính sự đẹp là đạo lý”.
* Khám phá bức tranh cuộc sống đầy mâu thuẫn
- Từ chiếc thuyền nhỏ dễ thương ngày trước, Phùng nhìn thấy: Cảnh bạo lực trong gia đình người phụ nữ làng chài.
- Thái độ của Phùng: “ngạc nhiên đến mức trong những phút đầu tiên, tôi chỉ có thể đứng im mà ngắm nhìn”.
- Ý nghĩa:
- Đằng sau vẻ đẹp của cảnh vật bên ngoài là sự khắc nghiệt của cuộc sống bị che đậy.
- Họa sĩ cần có cái nhìn đa chiều đối với cuộc sống.
c. Câu chuyện về người phụ nữ tại tòa án huyện
- Vẻ đẹp của người phụ nữ làng chài:
- Một người phụ nữ hiền lành, nhút nhát: Khi chánh án Đẩu đề nghị chị ly hôn, chị van xin “xin quý tòa … đừng ép con rời xa nó”.
- Một người phụ nữ đã trải: “Tâm hồn các anh tốt, nhưng các anh không phải là người làm ăn…”
- Một người phụ nữ hy sinh vì tình thương: Chấp nhận mọi lỗi lầm là của mình “Giá tôi sinh ra ít đi…”, hiểu được đau thương của chồng “người đàn ông không phải là kẻ độc ác, anh ấy chỉ là nạn nhân của cuộc sống khắc nghiệt. Người chồng là điểm tựa khi biển đời gian nan…”.
- Một người phụ nữ yêu thương đầy trái tim: “Phụ nữ trên thuyền chúng tôi sống vì con cháu chúng tôi…”, “Niềm vui lớn nhất là khi nhìn con cháu ăn no…”...
- Thái độ của chánh án Đẩu và họa sĩ nhiếp ảnh Phùng khi người phụ nữ quyết không rời xa chồng:
- Tiếp tục cảm thấy tức giận, bất mãn trước hoàn cảnh của người phụ nữ làng chài.
- Sau khi lắng nghe lời tâm sự của người phụ nữ, anh ta cảm thấy như có “một cái gì đó mới mẻ vừa mới được khám phá”.
=> Ý nghĩa: Cần phải có cái nhìn đa chiều về cuộc sống, không chỉ tập trung vào hiện tượng mà còn đánh giá tổng thể bản chất của vấn đề.
(3). Kết thúc
Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.