Thạch Lam là một người đôn hậu và rất đỗi tinh tế. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Hai đứa trẻ là một ví dụ điển hình cho phong cách sáng tạo của Thạch Lam. Nội dung của câu chuyện Hai đứa trẻ bao gồm tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Trong đó, nhà văn không chỉ thể hiện sự đồng cảm với những cuộc sống khốn khổ của những người nghèo mà còn thể hiện sự trân trọng đối với hoài bão, dù rất mơ hồ, của họ. Qua câu chuyện Hai đứa trẻ, người đọc cũng cảm nhận được một phần của tình yêu quê hương mà Thạch Lam gắn bó suốt đời.
Khi đọc truyện Hai đứa trẻ, chúng ta được đưa vào cuộc sống khó khăn, tăm tối của những người dân nghèo khổ, sống trong cảnh túng thiếu, không có ánh sáng và không có tương lai trong một xã hội cũ. Câu chuyện mở đầu với những dòng văn êm dịu, cùng với hình ảnh và âm thanh của một ngày kết thúc: “Tiếng trống thu không trên mái chòi nhỏ của huyện nhỏ; mỗi tiếng trống vọng ra để triệu hồi buổi chiều. Bầu trời phía tây sáng đỏ như lửa đang cháy và những đám mây màu hồng như đống than sắp tàn. Những dãy tre ở làng trước mặt đen thui và rõ ràng hình thành trên nền trời.
'Chiều tối, một buổi chiều dịu dàng như nhau, tiếng ếch nhái kêu râm ran ra khỏi đồng ruộng theo làn gió nhẹ nhàng”. Đây là một trong những minh chứng cho phong cách văn của Thạch Lam: “Văn của Thạch Lam không bao giờ thừa lời, không thừa chữ, không uốn éo để làm cho văn bản trở nên hấp dẫn một cách cầu kỳ, nhưng vẫn đầy hình ảnh và âm điệu, vừa mềm mại vừa tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không chỉ giúp người đọc nhìn thấy cảnh vật mà còn kích thích tình cảm, cảm xúc của họ đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật thường gần gũi, bình dị và mang đậm bản sắc Việt Nam.
Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những cuộc đời tàn tạ.
Chị Tí ban ngày kiếm cua, bắt tép, tối về sắp xếp hàng nước chè mới, đốt một ngọn đèn dầu leo lét. Cửa hàng trống trơn, mỗi chiều chị đều dọn dẹp từ lúc chiều tối đến khuya, nhưng “ít kiếm được bao nhiêu”. Bác xẩm ngồi trên chiếc chiếu, chiếc thau trước mặt, “nói chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu vang vọng trong im lặng. Con bò nhà ra ngoài, nằm ngoài chiếc chiếu, sưu tầm những rác rưởi vứt bừa bãi trong bờ đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại say rượu, cười gượng, kinh hoàng, sau khi uống một hơi cạn ly rượu, “bà đi vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức đêm để trông coi “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn từ khi cả nhà chuyển về quê ở, vì ông Liên mất việc”. Cửa hàng “bán không lời lỗ gì', Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để nuôi chúng nó”. Cảnh Liên chất hàng vào hòm, hai chị em tính tiền, niềm tiếc nuối thời gian còn ở Hà Nội nhiều lúc “được đi dạo Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh màu xanh đỏ”, ý nghĩ phở của bác Siêu là “một món quà xa xỉ” chưa bao giờ chị em Liên có thể sở hữu... khiến ta có thể hình dung được tình hình khó khăn và cuộc sống eo hẹp của gia đình Liên. Tuy nhiên, có lẽ dù sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn tốt hơn gia đình chị Tí và bác xẩm, bởi vì vẫn có “một gian hàng nhỏ thuê của bà lão già, phân cách ra bằng một tấm bảng gỗ dán giấy báo” ...
Vì thế, từ gia đình chị Tí, gia đình bác xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một tình huống, nhưng họ đều chung một cảm giác buồn bã, mệt mỏi... Điều đáng chú ý là tất cả những nhân vật này được Thạch Lam thể hiện với tâm trạng xót xa, thông qua từ ngữ và các chi tiết dường như rất khách quan.
Khi trời đã tối thăm thẳm, toàn bộ phố huyện dường như chỉ còn ánh sáng từ đèn của chị Tí. Ngoài nguồn sáng này, “bóng tối âm ỉ, ẩn mình trong cuộc sống quê mùa” (Thế Lữ) thống trị tất cả. Không phải vô tình mà trong tác phẩm, nhà văn liên tục nhắc lại chi tiết về ngọn đèn của chị Tí tới 7 lần. Kết thúc câu chuyện, hình ảnh cuối cùng, sâu sắc và xúc động nhất, đi vào giấc ngủ của Liên vẫn là “ánh sáng nhỏ của chiếc đèn của chị Tí chiếu sáng một phần đất nhỏ”.
Với cách sống quẩn quanh, lầm lũi, “những người trong bóng tối” ngày qua ngày sống trong cái “hồ đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này gợi lên những dòng thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận
Bước đi lủng lẳng cả đời dường như,
Cứ tiến lùi cũng chỉ vậy thôi nơi người.
Đời quá thân nên cười cợt cũng đầy,
Môi mỉm lại chỉ thấy vậy thôi.
Nhớ đến cuộc sống đơn giản, nhạt nhẽo “mỗi ngày cơm mai rồi lại cơm chiều, cuối cùng mỗi ngày chỉ có hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu.
Tuy nhiên, những người dân ở phố huyện vẫn nuôi hi vọng - dù hi vọng đó rất mơ hồ: “một điều gì đó sáng sủa cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Sự hi vọng mơ hồ này dường như làm cho tình cảnh thảm thương của những nhân vật trong truyện càng trở nên rõ ràng hơn. Họ sống đó, nhưng không biết ngày mai số phận sẽ đưa họ đi đâu! Niềm thương xót sâu lắng của Thạch Lam được thể hiện tinh tế trong cách miêu tả từng người: cảnh và giọng văn đều rất chậm rãi, u buồn.
Liệu có phải hai chị em đợi tàu để bán hàng? Không, “Liên không mong chờ ai đến mua nữa. Thực ra, vào ban đêm họ chỉ mua bao diêm hoặc gói thuốc là đã xong”. Ngoài ra, “Liên rất buồn ngủ, mắt cô rẽ ra”, nhưng cô vẫn không chịu ngủ. Trong khi “An đã nằm xuống [...] mắt cô đã sắp rơi xuống”, cô vẫn nhắc Liên nhớ đánh thức mình khi tàu đi qua. Hai chị em cố thức dậy chỉ vì “muốn nhìn thấy tàu, đó là hoạt động cuối cùng của đêm”; vì với hai đứa trẻ, tàu không chỉ là một phương tiện. Nó là một thế giới khác - “Một thế giới khác hoàn toàn, với Liên, khác xa so với ánh sáng từ chiếc đèn của chị Tí và ngọn lửa từ bác Siêu”.
Dấu hiệu đầu tiên của tàu là người gác ghi xuất hiện. Tiếp theo, Liên nhìn thấy ngọn lửa xanh lấp lánh, sát mặt đất như một linh hồn, sau đó cô nghe tiếng còi xe lửa “vang lên theo cơn gió”. Rồi, “hai chị em nghe thấy tiếng ồn ào, tiếng lớn khi xe lửa lao vào ga'', cùng với “một đám khói trắng bốc lên từ xa, sau đó tiếp tục tiếng ồn ào của hành khách”. Sau đó, “tàu rầm rộ tiến tới”, “các toa đèn sáng rực”, “những toa hạng sang đầy người, hàng và kính rực rỡ”. Cuối cùng là hình ảnh của tàu đi vào bóng tối “để lại những vệt than đỏ bay lên trên đường ray”, “cái đèn xanh treo trên toa cuối cùng, xa xa mờ dần vào hàng tre' ...
Đối với chị em Liên và có thể cả không ít người dân phố huyện, chuyến tàu đêm là biểu tượng của sức sống mạnh mẽ, của sự giàu có, sáng rực ánh sáng. Đó là sự đối lập với cuộc sống mệt mỏi, nghèo nàn, tối tăm và u buồn của người dân phố huyện. Riêng đối với chị em Liên, chuyến tàu đêm còn gợi nhớ về những kỷ niệm hạnh phúc của ngày xưa, tại Hà Nội, khi thầy chưa mất công việc. Phố huyện nhộn nhịp trong nháy mắt rồi lại lặng im vào bóng tối yên bình. Đáng chú ý hơn: Những người dân phố huyện chỉ chính thức dừng hoạt động khi chuyến tàu đêm đã qua. Phố huyện trở lại là chính nó. Hình ảnh ánh đèn lẻo léo của chị Tí lại hiện ra trong trạng thái lặng lẽ của Liên trước khi cô bước vào “giấc ngủ yên bình, yên bình như đêm ở trong phố, tĩnh lặng và u ám”.
Thể hiện thông qua tâm trạng của Liên, Thạch Lam biểu lộ sự trân trọng, lòng thương xót đối với những người sống trong cảnh khốn khổ, u ám, buồn chán tại phố huyện (nói rộng ra là sống trong đất nước còn đói kém, nô lệ hiện thời). Điều này, cũng đã được Thế Lữ nhận xét: “Tâm hồn của Thạch Lam hiện lên trong lời văn chương phong phú, đa dạng, nhưng luôn chứa đựng sự nhân từ, mềm mỏng, và luôn nức nở chút nước mắt thầm kín của lòng thương yêu. Nếu Thạch Lam có một ý tưởng nào đó trong việc viết văn, thì ý tưởng ấy luôn phản ánh và khơi dậy sự đau xót”.
Thể hiện qua tâm trạng của Liên, liệu có phải Thạch Lam muốn đánh thức những người đang buồn rầu, sống quẩn quanh, lam lũ hãy cố gắng tiến tới ánh sáng? Điều này chỉ có thể thấy trong những bút tích xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX, khi họ nhận thức đầy đủ về cá nhân, về con người. Ở đây, có vẻ như Thạch Lam đã gặp được Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân... (trong văn học lãng mạn), Nam Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài,... (trong văn học hiện thực) trong việc không chấp nhận sống trong cái “ao đời bằng phẳng”, mòn mỏi và tù túng, khao khát hướng tới một cuộc sống ý nghĩa, xứng đáng với con người.
Do đó, thể hiện một cách nhẹ nhàng mong muốn tiến tới cuộc sống tươi mới của những con người bé nhỏ, bình thường, Hai đứa trẻ mang giá trị nhân văn đáng quý.
Bên cạnh đó, Hai đứa trẻ cũng là một bài hát về thiên nhiên, về đất nước.
Với sự gắn bó sâu đậm với quê hương và dân tộc, cùng với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, Thạch Lam đã mang đến cho độc giả những bức tranh về quê hương gần gũi, không kém phần thơ mộng, đầy gợi cảm: “Buổi chiều êm ả như giọt mưa ru, với tiếng ếch nhái rú ri từ đồng ruộng theo làn gió nhẹ nhàng...”, ‘Bầu trời đã bắt đầu tối, một đêm mùa hạ êm đềm như nhung và thoáng qua cơn gió mát”. Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với cuộc sống ở làng quê. Do đó, chỉ mới ngửi “mùi ẩm ướt bốc lên, hơi nóng của ban ngày kết hợp với mùi cát bụi quen thuộc”, chị em Liên đã “tưởng như đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”.
Với cuộc sống hoà hợp và gần gũi với tự nhiên, hai đứa trẻ luôn nhận ra sự tinh tế của nó: “An và Liên nhìn lên trời để tìm kiếm dải Ngân Hà và con vịt đang đi theo ông Thần Nông”. Tâm hồn của họ dường như cảm nhận được sự giao hòa với cây cỏ quê hương: qua những chiếc lá của cây bàng, ngàn vì sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám dưới lá, ánh sáng nhỏ xanh nhấp nhô rồi hoa bàng rơi xuống vai Liên nhẹ nhàng, đôi khi từng đợt một. Tâm hồn của Liên trở nên yên bình, với những cảm xúc mơ hồ không rõ ràng”. Những hình ảnh, những chi tiết này thường gặp quen thuộc xung quanh chúng ta. Nhưng dưới bàn tay của Thạch Lam, chúng trở nên sâu lắng hơn nhiều! Ta nhận ra rằng, tình yêu với quê hương và đất nước của mỗi người Việt Nam thường được hình thành từ những điều bình dị như vậy.
Một điều đáng chú ý là trong các tác phẩm của các nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao... có vẻ ít có sự chú trọng đến thiên nhiên. Vì vậy, điều này có thể được xem như một đóng góp của Thạch Lam cho văn học trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngoài ra, so với nhiều truyện ngắn của thập niên 30 - 40 thế kỷ XX thường thu hút người đọc bằng cốt truyện hấp dẫn, tình tiết mới lạ, cách kể chuyện sắc bén, hay phong cách viết phóng đại... (như các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan), truyện của Thạch Lam lại thu hút người đọc bằng vẻ thơ trong cuộc sống hàng ngày. Mỗi câu chuyện thường xoay quanh một tâm trạng, một ý nghĩ sâu sắc của nhân vật. Vì là truyện tình cảm, nên sau những chi tiết đó, những nhân vật luôn ẩn chứa hình ảnh của tác giả chính - một con người tinh tế, nhẹ nhàng, nhạy cảm đối diện với mọi biến thái của đời sống và lòng người, đặc biệt luôn thấu hiểu những số phận sống khó khăn, đói nghèo và u tối.