Cao su | |
---|---|
Cây cao su (Hevea brasiliensis) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
Bộ (ordo) | Malpighiales |
Họ (familia) | Euphorbiaceae |
Phân họ (subfamilia) | Crotonoideae |
Tông (tribus) | Micrandreae |
Phân tông (subtribus) | Heveinae |
Chi (genus) | Hevea |
Loài (species) | H. brasiliensis |
Danh pháp hai phần | |
Hevea brasiliensis Müll.Arg. |
Cây Cao Su (tên khoa học: Hevea brasiliensis) là loài cây thân gỗ thuộc họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên quan trọng nhất trong chi Hevea. Sự quan trọng kinh tế của nó đến từ mủ cây, một chất lỏng như nhựa có thể thu thập và sử dụng để sản xuất cao su tự nhiên.
Cây cao su có thể cao đến hơn 30m. Mủ nhựa có màu trắng hoặc vàng nằm trong các mạch nhựa ở lớp vỏ cây, chủ yếu bên ngoài libe. Các mạch này thường xoắn theo thân cây theo hướng tay phải, tạo góc khoảng 30 độ với mặt phẳng.
Khi cây đạt độ tuổi từ 5-6 năm, người ta bắt đầu thu hoạch mủ bằng cách rạch vết vuông góc với mạch nhựa mủ, với độ sâu vừa đủ để không làm hại sự phát triển của cây, và mủ sẽ chảy vào các thùng nhỏ. Quy trình này gọi là cạo mủ cao su. Sản lượng mủ phụ thuộc vào giống cây, vị trí trồng và phương pháp cạo. Chu kỳ khai thác của cây cao su thường kéo dài từ 20 đến 25 năm.
Lịch sử
Cây cao su vốn chỉ mọc trong khu rừng mưa Amazon. Gần 10 thế kỷ trước, thổ dân Mainas đã sử dụng nhựa cây này để bảo vệ quần áo khỏi độ ẩm và chế tạo những quả bóng chơi trong các lễ hội. Họ gọi chất nhựa này là Caouchouk, có nghĩa là 'Nước mắt của cây' trong ngôn ngữ Thổ dân Mainas, với cao nghĩa là gỗ và Uchouk nghĩa là chảy ra hoặc khóc.
Sự gia tăng nhu cầu và phát minh công nghệ lưu hóa vào năm 1839 đã dẫn đến sự bùng nổ sản xuất trong khu vực, làm giàu cho các thành phố Manaus (bang Amazonas) và Belém (bang Pará) của Brazil.
Những nỗ lực đầu tiên để trồng cây cao su ngoài Brasil bắt đầu vào năm 1873. Sau nhiều thử nghiệm, 12 hạt giống đã nảy mầm tại Vườn thực vật hoàng gia Kew. Các cây con sau đó được gửi đến Ấn Độ để trồng, nhưng không thành công. Nỗ lực tiếp theo vào năm 1875 với khoảng 70.000 hạt giống đã thành công khi 4% trong số đó nảy mầm. Vào năm 1876, khoảng 2.000 cây giống được gửi đến Ceylon và 22 cây được gửi đến các vườn thực vật ở Singapore. Sau khi thành công ngoài nơi bản địa, cây cao su được nhân rộng tại các thuộc địa của Anh. Cây cao su được trồng tại vườn thực vật Buitenzorg, Malaysia vào năm 1883. Đến năm 1898, một đồn điền cao su đã được thành lập ở Malaya. Ngày nay, phần lớn các khu vực trồng cao su nằm ở Đông Nam Á và một số khu vực ở châu Phi nhiệt đới, trong khi các nỗ lực trồng tại Nam Mỹ không thành công như mong đợi.
Ứng dụng
Nhựa mủ của cây cao su được sử dụng để chế tạo lốp xe, găng tay y tế, bao cao su và nhiều sản phẩm cao su khác.
Gỗ từ cây cao su, thường gọi là gỗ cao su, được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất đồ nội thất. Loại gỗ này được yêu thích vì có thớ dày, ít co ngót, màu sắc đẹp mắt và dễ dàng hoàn thiện theo nhiều kiểu khác nhau. Hơn nữa, gỗ cao su được coi là loại gỗ 'thân thiện với môi trường' bởi vì nó chỉ được khai thác khi cây đã kết thúc chu kỳ thu hoạch mủ.
Bên cạnh đó, kho gỗ cao su cũng cung cấp nhiều sản phẩm như phôi gỗ, ván ghép, và vụn gỗ tẩm sấy, chủ yếu tập trung tại Bình Dương và các khu vực khác ở Việt Nam. Đây là nguồn thu nhập quan trọng cho những người trồng cao su khi cây không còn khả năng sản xuất mủ.
Đặc tính
- Cây cao su thường được thu hoạch sau 9 tháng, trong khi 3 tháng còn lại là thời gian cây thay lá. Giai đoạn thay lá rất quan trọng vì ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cây. Chu kỳ thu hoạch thường bắt đầu vào tháng 3 và kết thúc vào tháng 1 năm sau.
- Cây cao su thường đạt chiều cao khoảng 20 mét, với rễ cọc ăn sâu để giữ vững thân cây, hấp thu chất dinh dưỡng và chống lại hạn hán. Cây có vỏ nhẵn màu nâu nhạt và lá kép, rụng lá mỗi năm một lần. Hoa của cây cao su có cấu trúc đơn, hoa đực bao quanh hoa cái nhưng thường thụ phấn chéo vì hoa đực chín sớm hơn hoa cái. Quả cao su là quả nang có 3 mảnh vỏ, mỗi nang chứa một hạt hình bầu dục hoặc hình cầu đường kính khoảng 2 cm, có hàm lượng dầu cao dùng trong ngành sơn.
- Cây phát triển tốt nhất ở vùng nhiệt đới ẩm, với nhiệt độ trung bình từ 22°C đến 30°C (tốt nhất là từ 26°C đến 28°C), cần lượng mưa khoảng 2.000mm nhưng không chịu được ngập úng và gió mạnh. Cây cao su có thể chịu đựng nắng hạn từ 4 đến 5 tháng, tuy nhiên năng suất mủ sẽ giảm.
- Cây cao su tự nhiên phát triển từ hạt. Tuy nhiên, do yêu cầu chuyên canh, hiện nay cây cao su thường được nhân giống vô tính bằng phương pháp ghép mắt trên gốc cây sinh trưởng từ hạt tự nhiên.
- Việc cạo mủ rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian và lượng mủ mà cây có thể cung cấp. Thông thường, cạo mủ bắt đầu khi chu vi thân cây đạt khoảng 50 cm. Quy trình cạo mủ từ trái sang phải, ngược với hướng mạch mủ, với độ dốc vết cạo từ 20 đến 35 độ. Vết cạo không nên sâu quá 1,5 cm và phải tránh làm tổn thương lớp sinh gỗ để vỏ cây có thể tái sinh. Khi cạo lần sau, phải làm sạch mủ đông lại ở vết cạo trước. Thời điểm tốt nhất để cạo mủ là trước 7 giờ sáng.
Việt Nam
Người Pháp lần đầu tiên đưa cây cao su vào Việt Nam tại vườn thực vật Sài Gòn vào năm 1878, nhưng cây không phát triển được.
Năm 1892, Việt Nam nhận được 2.000 hạt giống cao su từ Indonesia. Trong số 1.600 cây sống sót, 1.000 cây được gửi đến trạm thực vật Ong Yệm (Bến Cát, Bình Dương), còn 200 cây được giao cho bác sĩ Yersin để thử nghiệm tại Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km).
Năm 1897 đánh dấu sự có mặt chính thức của cây cao su ở Việt Nam. Công ty cao su đầu tiên, Suzannah, được thành lập tại Dầu Giây (Long Khánh, Đồng Nai) vào năm 1907. Sau đó, nhiều đồn điền và công ty cao su ra đời, chủ yếu thuộc sở hữu của người Pháp và tập trung ở Đông Nam Bộ, như SIPH, SPTR, CEXO, Michelin... Một số đồn điền cao su tư nhân của Việt Nam cũng được thành lập.
Đến năm 1920, khu vực Đông Nam Bộ đã có khoảng 7.000 ha diện tích trồng cao su và sản lượng đạt 3.000 tấn.
Cây cao su được trồng thử nghiệm ở Tây Nguyên vào năm 1923 và phát triển mạnh mẽ từ năm 1960 đến 1962 trên các vùng đất cao từ 400 đến 600 m, nhưng hoạt động này phải ngừng lại do chiến tranh.
Trước năm 1975, nhằm cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp miền Bắc, cây cao su đã được trồng vượt vĩ tuyến 17 Bắc tại các tỉnh như Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Phú Thọ. Từ năm 1958 đến 1963, nhờ nguồn giống từ Trung Quốc, diện tích trồng cao su đã mở rộng đến khoảng 6.000 ha. Hiện nay, cây cao su cũng đã được trồng tại khu vực miền núi phía Bắc, với Lai Châu trở thành trung tâm của cây cao su ở khu vực này.
Đến năm 1976, diện tích trồng cao su ở Việt Nam còn khoảng 76.000 ha, trong đó Đông Nam Bộ chiếm khoảng 69.500 ha, Tây Nguyên khoảng 3.482 ha, và các tỉnh duyên hải miền Trung cùng khu 4 cũ khoảng 3.636 ha.
Sau năm 1975, cây cao su tiếp tục được phát triển chủ yếu tại Đông Nam Bộ. Từ năm 1977, Tây Nguyên bắt đầu lại chương trình trồng mới, đầu tiên do các nông trường quân đội, sau đó từ năm 1985 do các nông trường quốc doanh, và từ năm 1992, các hộ tư nhân cũng tham gia trồng cao su. Ở miền Trung, sau năm 1984, cây cao su được phát triển tại Quảng Trị và Quảng Bình bởi các công ty quốc doanh.
Đến năm 1999, tổng diện tích cao su trên toàn quốc đạt 394.900 ha, trong đó cao su tiểu điền chiếm khoảng 27,2%. Năm 2004, diện tích cao su cả nước tăng lên 454.000 ha, với cao su tiểu điền chiếm 37%. Đến năm 2005, diện tích cao su toàn quốc đạt 464.875 ha.
Năm 2007, diện tích trồng cao su phân bổ như sau: Đông Nam Bộ có 339.000 ha, Tây Nguyên 113.000 ha, khu vực phía Bắc 41.500 ha và Duyên Hải miền Trung 6.500 ha. Tháng 5 năm 2010, một số bệnh lạ đã xuất hiện gây khó khăn cho người trồng, với triệu chứng nhẹ là vàng lá và nặng hơn là rụng lá và chết cây, trong khi các phương pháp điều trị đặc hiệu chưa đạt hiệu quả cao.
Theo báo cáo từ Hiệp hội Cao su Việt Nam, tính đến cuối năm 2012, diện tích cây cao su tại Việt Nam đã đạt 910.500 ha, với sản lượng dự đoán là 863.600 tấn. Việt Nam đứng thứ năm thế giới về sản lượng cao su thiên nhiên, chỉ sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ.
Dựa trên số liệu của ANRPC năm 2017, diện tích cây cao su ở Việt Nam đã lên tới 969.700 ha, với năng suất đạt 1.094.500 tấn.
Các tên gọi đồng nghĩa
Chi Hevea còn được biết đến với các tên gọi sau:
- Caoutchoua J.F.Gmel.
- Micrandra Benn. & R.Br.
- Siphonanthus Schreb. cũ Baill.
- Siphonia D.Richard cũ Schreb.
- Castilla elastica – loài cây cung cấp nhựa mủ cao su chủ yếu cho người dân Mesoamerica trước thời kỳ Columbus, không liên quan đến cây cao su hiện nay.
Thư viện hình ảnh
Ghi chú
Tài liệu tham khảo
- Ts. Nguyễn Thị Huệ - Cây cao su - Sách của Hiệp hội Cao su Việt Nam.
- 'L'histoire du plant de Caoutchouc du Vietnam' (Lịch sử cây cao su Việt Nam) của tác giả Jean Le Bras, xuất bản ở Paris năm 1949.
- Zhang, J., Huss, V.A.R., Sun, X., Chang, K. và Pan, D. 2008. Hình thái học và vị trí phân loại của một loài tảo xanh trebouxiophycean (Chlorophyta) sống trên cây cao su, Hevea brasiliensis, với mô tả một chi và loài mới. Eur. J. Phycol. 43(2): 185 - 193.
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại |
|
---|