Chùm ngây | |
---|---|
Hoa chùm ngây | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
Bộ (ordo) | Brassicales |
Họ (familia) | Moringaceae |
Chi (genus) | Moringa |
Loài (species) | M. oleifera |
Danh pháp hai phần | |
Moringa oleifera Lam., 1785 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Danh sách |
Chùm ngây (hay còn gọi là ba đậu dại, danh pháp khoa học: Moringa oleifera) là loài thực vật thân gỗ phổ biến nhất trong chi Chùm ngây (danh pháp khoa học: Moringa) thuộc họ Chùm ngây (Moringaceae). Loài cây này có nguồn gốc từ Nam Á nhưng hiện nay đã được trồng và khai thác ở nhiều nơi trên thế giới nhờ vào giá trị kinh tế cao của nó.
Trong tiếng Anh, chùm ngây được gọi bằng nhiều tên khác nhau như 'cây cải ngựa' (Horseradish tree) do rễ cây có vị giống cải ngựa, 'cây dùi trống' (Drumstick tree) vì thân và quả cây giống như dùi trống, và 'cây dầu bel' (Bel-oil tree) vì dầu từ hạt cây được bán dưới tên bel-oil.
Đặc điểm
Cây chùm ngây là cây thân mộc có chiều cao trung bình, khi trưởng thành có thể đạt hàng chục mét. Cây 1 tuổi nếu không được cắt ngọn có thể cao đến 5-6m và đường kính khoảng 10 cm. Đến tuổi 3-4 năm, cây đạt kích thước trưởng thành. Thân cây nhẵn, không có gai. Lá kép dài từ 30 đến 60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc; mỗi lá chét dài từ 12 đến 20 mm, hình trứng, mọc đối có 6-9 đôi. Cây ra hoa vào các tháng 1-2 với hoa trắng kem, có cuống, giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ và nhiều mật. Quả dạng nang treo dài từ 25 đến 40 cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh và khía rãnh dọc theo quả. Hạt màu đen, tròn, có 3 cạnh, kích thước tương đương hạt đậu Hà Lan.
Chất dinh dưỡng và hoạt chất
|
Giá trị dinh dưỡng cho mỗi 100 g (3,5 oz) | |
---|---|
Năng lượng | 268 kJ (64 kcal) |
Carbohydrat | 8.28 g |
Chất xơ | 2 g |
Chất béo | 1.4 g |
Protein | 9.4 g |
Vitamin | Lượng %DV |
Vitamin A equiv. | 42% 378 μg |
Thiamine (B1) | 21% 0.257 mg |
Riboflavin (B2) | 51% 0.66 mg |
Niacin (B3) | 14% 2.22 mg |
Acid pantothenic (B5) | 3% 0.125 mg |
Vitamin B6 | 71% 1.2 mg |
Folate (B9) | 10% 40 μg |
Vitamin C | 57% 51.7 mg |
Chất khoáng | Lượng %DV |
Calci | 14% 185 mg |
Sắt | 22% 4 mg |
Magnesi | 35% 147 mg |
Mangan | 46% 1.063 mg |
Phosphor | 9% 112 mg |
Kali | 11% 337 mg |
Natri | 0% 9 mg |
Kẽm | 5% 0.6 mg |
Other constituents | Quantity |
Nước | 78.66 g |
Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành, ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia. |
Các bộ phận của cây chùm ngây chứa nhiều khoáng chất thiết yếu, giàu đạm, vitamin, beta-caroten, amino acid và các hợp chất phenol. Chùm ngây cung cấp nhiều hợp chất quý như zeatin, quercetin, alpha-sitosterol, caffeoylquinic acid và kaempferol. Một số nghiên cứu cho thấy chùm ngây có hơn 90 chất dinh dưỡng, bao gồm bảy loại vitamin, sáu loại khoáng chất, 18 loại amino acid, 46 chất chống oxy hóa, cùng các hợp chất chống viêm, kháng sinh, kháng độc tố, hỗ trợ phòng ngừa và điều trị ung thư, u xơ tiền liệt tuyến, ổn định huyết áp, giảm cholesterol và bảo vệ gan.
Lá chùm ngây chứa nhiều dưỡng chất hơn cả quả và hoa, tính theo trọng lượng. Cụ thể, vitamin C trong lá nhiều gấp 7 lần so với cam, vitamin A gấp 4 lần so với cà rốt, canxi gấp 4 lần so với sữa, sắt gấp 3 lần so với cải bó xôi, đạm gấp đôi sữa chua và kali gấp 3 lần so với chuối.
Các nghiên cứu về chùm ngây chủ yếu được thực hiện ở Ấn Độ, Philippines và Châu Phi. Cây đã được biết đến và sử dụng từ hàng nghìn năm tại các nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, Ý, Ấn Độ. Do toàn bộ các phần của cây đều có thể dùng làm thức ăn hoặc phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, chùm ngây được khuyến khích trồng rộng rãi, đặc biệt là ở các nước nghèo. Rau chùm ngây là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời cho trẻ sơ sinh và phụ nữ mới sinh.
Các tổ chức phi chính phủ như 'Trees for Life International', 'Church World Service', 'Educational Concerns for Hunger Organization' và 'Volunteer Partnerships for West Africa' đã ca ngợi chùm ngây là 'nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho các quốc gia nhiệt đới'. Một nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng 'bột lá chùm ngây có giá trị dinh dưỡng và có thể giúp chống lại nạn đói.' Chùm ngây thường cung cấp nhiều lá vào cuối mùa khô, trong khi các loại cây rau khác thường ít lá hơn.
Phân bố
Chùm ngây có nguồn gốc từ vùng núi Hi Mã Lạp Sơn ở tây bắc Ấn Độ, nơi cây đã được phát hiện và sử dụng từ hơn 4000 năm trước. Hiện nay, cây đã được trồng phổ biến ở nhiều khu vực như Phi châu, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Đông Nam Á và nhiều nơi khác.
Tại Việt Nam, chùm ngây là loài duy nhất thuộc Chi Chùm ngây được phát hiện mọc hoang từ lâu ở nhiều địa phương như Thanh Hóa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vùng Bảy Núi ở An Giang, đảo Phú Quốc, v.v. Tuy nhiên, trước đây cây thường chỉ được dùng để làm hàng rào và ít được chú ý. Gần đây, khi hạt cây được nhập khẩu từ nước ngoài và qua nghiên cứu, người ta nhận thấy chùm ngây có nhiều công dụng đặc biệt, nên cây mới được chú ý và trồng nhiều hơn.
Trồng trọt
Chùm ngây rất dễ trồng và có thể phát triển từ hạt, hom cành hoặc hom củ, có thể trồng quanh năm. Đối với vùng thiếu nước, nên trồng vào mùa mưa, khoảng tháng 4 hoặc tháng 5. Cây thường được trồng ở các vùng khô hạn, khí hậu nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây ưa đất thoát nước tốt, nhiều cát, và có thể mọc trên đất kém màu mỡ, chịu hạn tốt, thích nắng và ít bị sâu bệnh. Tuy nhiên, cây không chịu được ngập úng và dễ chết nếu không được thoát nước đúng cách. Khi thấy lá cây xuất hiện đốm trắng, cần ngừng tưới hoặc tìm cách thoát nước cho cây.
Gỗ của cây chùm ngây khá mềm và giòn, vì vậy thân và cành dễ bị gãy trong mưa bão. Để khai thác, người trồng thường cắt ngọn khi cây đạt độ cao nhất định. Việc này không chỉ giúp việc thu hái dễ dàng mà còn kích thích cây mọc thêm cành mới theo dạng tán rộng, đồng thời giảm thiểu thiệt hại do gãy đổ.
Ứng dụng
Mỗi phần của cây chùm ngây, từ lá, hoa, quả, hạt, đến rễ và thân, đều có giá trị sử dụng. Việc canh tác cây chùm ngây không chỉ giúp cải thiện chất lượng đất mà còn cung cấp nguồn thực phẩm dinh dưỡng cho người và gia súc. Điều này hỗ trợ trong việc xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và chống suy dinh dưỡng ở trẻ em tại các quốc gia đang phát triển.
Trong ẩm thực, lá non và cả lá già của chùm ngây thường được dùng để nấu canh cùng với thịt, tôm, nấm hoặc dùng để xào, trộn salad, ăn sống. Lá khô tán bột có thể lưu trữ lâu mà vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng, sử dụng để làm bánh, pha nước uống, chế biến sốt cho mì pasta, hoặc nướng thịt cừu. Hoa chùm ngây có thể dùng làm rau hoặc phơi khô để nấu trà, trong khi quả non có thể xào, nấu canh, hầm xương hoặc ninh súp tương tự đậu cô ve và có hương vị gần giống măng tây. Khi quả già, hạt chùm ngây có thể rang ăn như đậu phộng, còn rễ non có thể ăn sống hoặc dùng như gia vị cải ngựa. Tuy nhiên, phụ nữ có thai nên hạn chế ăn rau và chế phẩm từ chùm ngây.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, khi nấu canh chùm ngây, nên nấu vừa chín để giữ lại tối đa các chất dinh dưỡng. Vì rau chùm ngây có hàm lượng dinh dưỡng cao, không cần cho nhiều rau vào nồi, nêm ít gia vị và tránh dùng mì chính vì rau đã có vị ngọt tự nhiên.
Sự quan tâm đến công dụng của chùm ngây đang gia tăng đáng kể trên toàn cầu. Không còn chỉ là một loại rau, cây chùm ngây hiện được ứng dụng rộng rãi trong ngành dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát bổ dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát triển xem chùm ngây như một liệu pháp chữa trị hàng trăm loại bệnh, bao gồm ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, động kinh, sưng tấy, viêm nhiễm, mỡ máu, đau dạ dày, ngừa thai, loét, lão hóa, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, trị chứng bất lực và tăng cường ham muốn tình dục.
Dựa trên các thống kê, chùm ngây có khả năng điều trị hơn 300 loại bệnh. Đặc biệt, hợp chất zeatin trong chùm ngây có khả năng chống lão hóa mạnh mẽ, cao gấp hàng ngàn lần so với các loại cây khác. Thêm vào đó, chùm ngây chứa hai loại hợp chất có khả năng phòng chống ung thư và ngăn chặn sự phát triển của khối u, do đó cây này được coi là một phương thuốc phòng chống ung thư hiệu quả.
Chùm ngây rất có lợi cho bệnh nhân ung thư nhờ vào sự cân bằng dinh dưỡng mà nó cung cấp. Các tế bào bình thường nhận đủ chất để hoạt động hiệu quả, trong khi các khối u lại nhận ít dinh dưỡng hơn, giúp hạn chế sự phát triển của chúng.
Hạt chùm ngây khô có thể được sử dụng để làm chất lọc nước hoặc ép lấy dầu. Dầu từ hạt có chất lượng tốt, màu vàng sáng và hương vị dễ chịu, có thể so sánh với dầu olive. Dầu này bền lâu, được dùng làm dầu ăn hoặc dầu máy. Ở các vùng nông thôn nghèo thuộc châu Á và châu Phi, hạt chùm ngây thường được nghiền nát và hòa vào nước để lọc, loại bỏ hoàn toàn cặn bẩn. Nước sạch này còn có tác dụng sát khuẩn nhờ chất dầu cay trong hạt, có thể dùng ngay làm nước uống.
Nhờ khả năng phát triển nhanh, chịu hạn và sống trong điều kiện đất đai khô cằn, chùm ngây được trồng nhiều nơi trên thế giới để làm hàng rào xanh bảo vệ các khu vực nông nghiệp, che bóng cho cây công nghiệp lâu năm, chắn gió và cát. Cây còn có khả năng cải tạo đất, lá già có thể làm phân hữu cơ và thức ăn bổ sung cho gia súc. Với dáng cây thanh thoát, tán đẹp và lá xanh mướt, chùm ngây cũng được trồng làm cây cảnh.
Dù thuộc loại cây gỗ, nhưng thân chùm ngây lại có gỗ mềm và nhẹ, là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho ngành sản xuất giấy và cũng được sử dụng để chế tạo phẩm màu xanh.