
Kơ nia | |
---|---|
Cây kơ nia tại Buôn Ma Thuột | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Malpighiales |
Họ (familia) | Irvingiaceae |
Chi (genus) | Irvingia |
Loài (species) | I. malayana |
Danh pháp hai phần | |
Irvingia malayana Oliv. cũ A. W. Benn. |
Cây Kơ nia (k'nia), còn được biết đến với tên gọi khác như cây cầy, cây cốc hoặc cốc [1], là tên địa phương của một loài thực vật có tên khoa học là Irvingia malayana, thuộc chi Irvingia, có nguồn gốc từ châu Phi và Đông Nam Á.
Phạm vi phân bố
Cây Kơ nia phân bố rộng rãi ở châu Á, xuất hiện ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, và Indonesia. Tại Việt Nam, cây này có mặt từ Quảng Nam đến một số tỉnh miền Nam và các đảo như Phú Quốc, Côn Đảo, nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên, đặc biệt là Sa Thầy - Kon Tum, Lắk, Bản Đôn-Đắk Lắk... Quảng Nam gọi cây này là cây cốc, nơi đây có nhiều cây Kơ nia cổ thụ.
Đặc điểm
Cây Kơ nia là loại cây gỗ lớn, cao từ 15 đến 30 mét, với đường kính từ 40 đến 60 cm. Lá cây hình trái xoan, mọc tập trung ở đầu cành. Hoa có màu trắng, với 4 đến 5 cánh, thường mọc thành chùm ở nách lá và nở vào khoảng tháng 5 đến tháng 6. Quả có hình trái xoan, dài từ 3 đến 4 cm, khi chín có màu vàng nhạt và thường xuất hiện vào tháng 10-11. Hạt chứa tinh dầu thơm, có thể dùng làm thực phẩm.
Tán cây Kơ nia thường có hình trứng, xanh quanh năm và rất bền bỉ, chịu hạn tốt. Rễ cây ăn sâu và có nhiều rễ tỏa ngang, giúp cây ít bị đổ khi gặp mưa lớn hoặc bão. Tuy nhiên, cây không phù hợp trồng trên đường phố vì quả rụng nhiều, dễ gây trơn trượt. Trong rừng, sau khi trái rụng, vỏ mỏng phân hủy nhanh còn hạt được bảo vệ bởi lớp vỏ xơ và gỗ, giúp bảo quản đến vài năm mà không bị hỏng. Sóc thường dự trữ hạt và rất thích ăn loại thực phẩm này. Để ăn, người ta đặt quả lên đá theo chiều vỏ mở, đập nhẹ để nứt đôi; hạt ăn sống rất thơm và béo ngậy, giống như hạt điều đã chế biến.
Gỗ
Gỗ Kơ nia có màu vàng nhạt, khó phân biệt giác ròng. Gỗ có sớ dạng xoắn, rất cứng nên khó cưa xẻ khi khô; cần phải chế biến khi còn tươi. Khi khô, gỗ dễ bị mối mọt. Ở Tây Nguyên, gỗ Kơ nia thường được dùng để làm thớt chặt, có chất lượng tương đương thớt gỗ nghiến. Khi đốt, gỗ Kơ nia tạo ra than tốt.
Ứng dụng trong y học
Dùng làm thuốc chữa đầy bụng, trị sốt rét rừng và các vấn đề về tiêu hóa. Ở Quảng Nam xưa, cây Kơ nia, còn gọi là cây cốc, thường được dùng để chế tạo cối xay lúa. Quả của cây chín rụng, sau đó được chôn dưới đất để loại bỏ vỏ, rồi hạt được rửa sạch và phơi khô để dùng. Vì hạt khô rất cứng, khi chẻ dễ làm đứt tay, nên mới có câu: Ăn cốc cộc tay.
Cây Kơ nia tại Tây Nguyên
Cây Kơ nia có ý nghĩa tâm linh sâu sắc đối với các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Họ coi cây như nơi trú ngụ của thần thánh và linh hồn tổ tiên, vì vậy rất ít khi họ đụng chạm hay chặt phá cây. Trong nương rẫy, thường thấy các cây Kơ nia cổ thụ được dùng làm nơi nghỉ ngơi. Người Kinh khi làm rẫy cũng thường để lại cây Kơ nia làm bóng mát không phải vì lý do tâm linh mà vì gỗ cây quá cứng, khó khai thác. Du khách thường tìm đến các tỉnh Tây Nguyên để chiêm ngưỡng cây Kơ nia, đặc biệt là tại trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, nơi có một cây Kơ nia cổ thụ nằm trong sân sau nhà văn hóa tỉnh, gần ngã 6 Ban Mê.
Âm nhạc
Bài hát Bóng cây Kơ nia được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sáng tác.
Hình ảnh cây Kơ nia







Ghi chú
- Chim Chơ rao