Ficus racemosa | |
---|---|
Trái sung | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
Bộ (ordo) | Rosales |
Họ (familia) | Moraceae |
Chi (genus) | Ficus |
Loài (species) | F. racemosa |
Danh pháp hai phần | |
Ficus racemosa L., 1753 |
Cây sung, hay còn gọi là ưu đàm thụ hoặc tụ quả dong (danh pháp khoa học: Ficus racemosa, đồng nghĩa Ficus glomerata Roxb., 1802), là một loại cây gỗ lớn, mọc nhanh, thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Cây thường mọc hoang dại ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt ở những nơi đất ẩm ven bìa rừng, ao hồ, sông suối.
Đặc điểm
Cây có thân gỗ cao từ 25–30 m, đường kính lên đến 60–90 cm; hoa mọc đơn tính trên cùng một gốc. Vỏ thân cây màu nâu xám và nhẵn. Các cành nhỏ có phiến lá non và chùm quả được phủ bởi lông tơ mềm màu trắng. Cành nhỏ có màu nâu. Lá kèm có hình trứng-mũi mác, dài 1,5–2 cm, có màng và lông tơ. Lá thường rụng sớm, mọc so le; cuống lá dài 2–3 cm; phiến lá hình elip-trứng ngược, elip hoặc elip hẹp, kích thước 10-14 x 3-4,5(-7) cm, dai như da, màu xanh nhạt ở xa trục, có lông tơ khi non, không lông và hơi xù xì khi già, màu xanh sẫm ở gần trục và nhẵn nhụi, gốc lá hình nêm hơi cùn, mép lá nguyên, nhọn ở đỉnh hoặc hơi cùn; có 2 gân bên cơ sở, gân thứ cấp 4-8 ở mỗi bên của gân giữa.
Quả mọc thành chùm trên các cành nhỏ ngắn ở thân cây già, đôi khi xuất hiện ở nách lá trên các cành non hoặc các cành nhỏ không lá đã già, mọc thành cặp, màu cam đỏ khi chín, hình quả lê, đường kính 2-2,5 cm, phần gốc quả thu hẹp thành cuống, lỗ chân lông trên đỉnh hình rốn, phẳng; cuống dài khoảng 1–2 cm; các lá bắc tổng bao hình tam giác-trứng. Hoa đực và cái, cũng như vú lá, mọc trên cùng một cây. Hoa đực: các lỗ chân lông gần đỉnh, không có cuống; đài hoa có 3 hoặc 4 thùy; nhị hoa 2. Hoa cái: có cuống nhỏ; đài hoa có các thùy thẳng, đỉnh 3 hoặc 4 răng; vòi nhụy bên; núm nhụy hình chùy. Hoa nở từ tháng 5 đến tháng 7.
Phân bố
Cây sung thường mọc ở những nơi ẩm ướt gần bờ sông suối hoặc trong lòng suối, tại các độ cao từ 100 đến 1.700 m. Phạm vi phân bố của cây bao gồm Trung Quốc (miền nam tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam), Ấn Độ, Đông Nam Á, Nepal, New Guinea, Pakistan, Sri Lanka và Australia. Tại Việt Nam, cây sung phân bố rộng rãi ở cả ba miền.
Ứng dụng
Quả sung mọc thành từng chùm trên thân cây và có thể ăn được. Người ta thường muối quả sung giống như muối dưa để ăn trực tiếp hoặc dùng để kho thịt, cá.
Lá sung non cũng được sử dụng trong ẩm thực, thường ăn kèm với thịt chua, thịt lợn ba chỉ luộc, gỏi cá,... Lá sung tật, tức lá bị ký sinh bởi rầy và có các đốm sùi lên, được dùng trong một số bài thuốc và là thành phần trong phương thuốc lợi sữa. Cây sung còn được yêu thích làm cây cảnh do dáng vẻ đẹp mắt và ý nghĩa phong thủy liên quan đến sung túc, hiện nay cây cũng được dùng để làm bonsai.
Trong mâm ngũ quả ngày Tết, nhiều nơi thường bày chùm quả sung cùng các loại trái cây khác để đặt trên bàn thờ. Điều này nhằm cầu mong một năm mới đầy đủ, hạnh phúc và thịnh vượng cho gia đình.
Nhựa của cây sung được dùng để điều trị các vết thương ngoài da, chữa đau đầu, áp xe vú, nhọt độc, hen suyễn, chốc lở và ghẻ ngứa.
Bài thuốc
Điều kinh cho phụ nữ: dùng 60 g lá sung, 30 g măng sậy hoặc búp sậy, 20 g ngải cứu, 5 g phèn chua phi và một ít muối. Tất cả giã nát, thêm nước dừa vào, quấy đều rồi vắt lấy nước. Uống vào thời điểm gần có kinh nguyệt để giúp hành kinh dễ dàng hơn.
Chữa sởi cho trẻ em: dùng 15 g lá sung tật, lá dâu, lá đậu ván và lá cối xay, sao vàng tất cả và sắc lấy nước uống trong ngày. Trẻ từ 2-5 tuổi, mỗi lần uống 20 ml, cách 2 giờ uống một lần cho đến khi khỏi bệnh.
Chữa hen suyễn ở trẻ em: pha nhựa sung với mật ong và uống trước khi đi ngủ để giảm triệu chứng.
Chữa nhức đầu: thoa nhựa sung lên giấy bản và dán vào hai bên thái dương để giảm đau.
Trong tôn giáo
Ấn giáo
Trong Atharva Veda, cây sung (tiếng Phạn: uḍumbara hay udumbara) được xem là biểu tượng của sự thịnh vượng và sức mạnh để chiến thắng kẻ thù. Ví dụ, bài ca tụng trong Atharva Veda (AV xix, 31) đề cập đến sức mạnh huyền bí của cây udumbara.
Phật giáo
Trong Phật giáo, toàn bộ cây, hoa và quả của cây sung đều được gọi là udumbara (từ tiếng Phạn, Pali; tiếng Devanagari: उडुम्बर, tức hoa đàm hay ưu đàm hoa). Udumbara cũng có thể chỉ hoa Ni la ưu đàm bát la (Nila udumbara). Hoa ưu đàm được nhắc đến trong các chương 2 và 27 của Diệu pháp liên hoa kinh, một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng. Từ tiếng Nhật udonge (優曇華, ưu đàm hoa) được thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (1200-1253) sử dụng để chỉ hoa của cây ưu đàm hoa trong chương 68 của Chính pháp nhãn tạng (正法眼藏, shōbōgenzō). Đạo Nguyên đã khắc họa hình ảnh của hoa ưu đàm trong hoa thuyết pháp mà Thích-ca Mâu-ni đặt trên đỉnh Linh Thứu.
Một số hình ảnh về cây sung
Chú thích
Liên kết tham khảo
- Sung trong danh mục thực vật Trung Hoa
- Thông tin về Sung trên Từ điển bách khoa Việt Nam
- Sung trên Encyclopedia of Life
- Thông tin về Sung trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
- Sung 506544 trên Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).
- Ficus racemosa L. (tên được chấp nhận) trong Catalogue of Life: ngày 31 tháng 5 năm 2018
Danh sách trái cây Việt Nam |
---|