Tre lồ ô | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới: | Plantae |
nhánh: | Tracheophyta |
nhánh: | Angiospermae |
nhánh: | Monocots |
nhánh: | Commelinids |
Bộ: | Poales |
Họ: | Poaceae |
Tông: | Bambuseae |
Phân tông: | Bambusinae |
Chi: | Bambusa |
Loài: | B. balcooa
|
Danh pháp hai phần | |
Bambusa balcooa Roxb. | |
Các đồng nghĩa | |
|
Cây tre lồ ô, còn được gọi là lồ ô Trung Bộ (danh pháp khoa học: Bambusa balcooa), là một loài tre có nguồn gốc từ Ấn Độ. Loài tre này rất phổ biến ở Việt Nam, được sử dụng làm thực phẩm cũng như trong các công trình xây dựng tạm thời. Cây có thể cao tới 25 mét và đường kính đạt 15 cm. Nó mọc thành từng bụi.
Cây tre lồ ô có đặc điểm tương tự như các loại tre khác. Chúng có độ đàn hồi cao và độ mềm dẻo nhất định.
Đặc điểm hình thái
Thân tre lồ ô ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc thành bụi thưa, thường không thẳng, cao từ 14-18 mét, với ngọn cong rủ. Đường kính phổ biến từ 5–6 cm, có thể đạt 7–8 cm. Chiều dài trung bình của lóng từ 40–60 cm, các lóng giữa thân dài đến 80–90 cm, trong khi các lóng gốc chỉ dài 30–50 cm. Vách thân dày 1,1 cm. Thân tròn đều, nhẵn, có vòng mo nổi rõ, được phủ bằng lớp lông màu nâu xám bạc. Khi còn non, thân tre có màu xanh bạc do lớp lông trắng phủ; khi già, thân chuyển sang màu lục với địa y trắng mọc thành đốm. Cành chính có đường kính từ 2–3 cm, dài từ 2-3 mét; gốc cành phát triển và ít có cành nhỏ. Phiến lá thuôn dài, dài từ 20–30 cm, rộng từ 2–4 cm, đầu lá nhọn, đuôi hơi thuôn, có 1 gân chính và nhiều gân bên song song, nổi rõ. Bẹ mo hình thang cân, đáy rộng từ 20–30 cm, đầu bẹ mo rộng từ 5–8 cm hơi lõm, cao 28 cm; mặt ngoài bẹ mo phủ lớp lông nâu, mặt trong nhẵn bóng. Lá mo hình mũi giáo dài 20 cm, rộng 4 cm, có gân sọc cả hai mặt. Tai mo không phát triển, dạng lông cứng; lưỡi mo xẻ sâu. Cụm hoa phân nhánh nhiều, mỗi nhánh có 3-5 bông nhỏ, xếp thành hình đầu. Bông nhỏ nhọn đầu, hơi dẹt, màu vàng xanh hoặc tím, dài từ 1,5-2,5 cm, rộng từ 5-8 mm, mang khoảng 5-7 hoa. Các hoa lưỡng tính nằm ở giữa, hoa trên ngọn và dưới gốc phát triển không đầy đủ. Gốc bông nhỏ mang 2 lá bắc lớn màu vàng nhạt. Mày nhỏ ngoài màu cỏ úa, mày nhỏ trong dài 8–10 mm. Hoa lưỡng tính với nhị rời và nhuỵ có 2 vòi.
Thông tin bổ sung về thực vật: Loài tre này trước đây bị nhầm lẫn với tên khoa học là Schizostachyum zollingeri Steud. Tuy nhiên, tên khoa học đó thuộc về một loài nứa mo tím phân bố tại Đà Nẵng. Hiện tại, tên khoa học chính xác của loài lồ ô là Bambusa procera A.Chev & A.Camus do hoa lồ ô có đặc điểm của chi Tre (Bambusa), không phải chi Nứa (Schizostachyum). Cần lưu ý rằng tên lồ ô thường được dùng để chỉ nhiều loài tre khác nhau ở các tỉnh phía Nam, giống như tên nứa dùng để chỉ nhiều loài tre ở miền Bắc. Vì vậy, một số loài tre ở Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng... có tên địa phương là lồ ô nhưng không phải là loài lồ ô chính thức - Bambusa procera.
Nhân giống
Lồ ô là một loài tre phổ biến và thường mọc thành rừng, vì vậy hiện vẫn chưa có nghiên cứu chi tiết về việc trồng lồ ô. Trên thực tế, lồ ô có thể được trồng từ gốc giống như các loài tre mọc cụm khác. Để phát triển lồ ô ở quy mô lớn, có thể xem xét việc trồng bằng cành, vì trong điều kiện rừng ẩm ướt, đôi khi dưới gốc cành chính cũng xuất hiện rễ.
Ứng dụng
Thân lồ ô chứa hơn 50% cellulose và 22,37% lignin, với chiều dài sợi từ 1,9-2,2mm, làm cho nó trở thành nguyên liệu lý tưởng cho sản xuất giấy trắng cao cấp với độ dai cao. Lồ ô có tỷ trọng (khô) là 785 kg/m³, độ bền nén dọc thớ là 598,7 kg/cm², và độ bền uốn xuyên tâm đạt 3448 kg/cm². Độ bền uốn tiếp tuyến là 2499 kg/cm², đáp ứng tốt yêu cầu trong xây dựng. Cây lồ ô với lóng dài cũng rất phù hợp để chế biến ván ép. Trong đời sống hàng ngày, lồ ô được sử dụng rộng rãi từ làm đồ dùng đến chế biến măng ăn.
Khai thác
Theo nghiên cứu về cấu trúc rừng lồ ô của Lâm Xuân Sanh (1981), trong một hecta rừng lồ ô thuần chủng, cây non (dưới 1 năm tuổi) chiếm 20%; cây trung niên (từ 2-4 tuổi) chiếm 38,7%, và cây già (trên 5 tuổi) chiếm 23,7%. Trong diện tích 1ha này có 4.438 cây sống (83,3%) và 887 cây lồ ô chết do quá già (16,7%). Do đó, việc để rừng lồ ô quá già mà không khai thác sẽ dẫn đến lãng phí. Khi khai thác, cần tuân theo các phương pháp sau: Tuổi chặt: Nên chặt các cây từ 3 năm tuổi trở lên. Chu kỳ và lượng chặt: Chu kỳ chặt từ 1-3 năm tùy theo điều kiện và yêu cầu. Nếu chu kỳ là 1 năm, nên chặt toàn bộ cây trên 4 tuổi và một phần cây trên 3 tuổi. Tỷ lệ chặt trung bình là 25-35%. Chu kỳ này chỉ áp dụng cho rừng vườn. Chu kỳ 2 năm là thích hợp nhất để khai thác rừng lồ ô, chặt cây 3-4 tuổi và giữ lại cây 1-2 tuổi để sinh và nuôi măng. Tỷ lệ chặt trên 50% trữ lượng ở những khu rừng ổn định và 40-50% ở các khu rừng phục hồi. Khai thác cũng giúp tăng tốc quá trình phục hồi cho các khu rừng này. Chu kỳ 3 năm: chặt các cây trên 3 tuổi (từ 3-5 năm) với tỷ lệ sản phẩm khoảng 55-65% trữ lượng rừng. Phương pháp này tốt về mặt kinh tế nhưng có thể làm giảm chất lượng rừng do rừng bị mở tán quá mạnh, tạo ra nhiều khoảng trống.
Năng suất rừng lồ ô
Sản lượng của rừng lồ ô thay đổi tùy thuộc vào điều kiện đất đai và trạng thái của rừng. Trong tình trạng phục hồi, rừng có sản lượng đạt từ 2-2,5 tấn/ha/2 năm; rừng hỗn giao lồ ô và gỗ đạt từ 5-5,5 tấn/ha/2 năm. Đây là mức năng suất phổ biến của rừng tre trên toàn cầu. Do rừng lồ ô thường được khai thác để làm nguyên liệu cho giấy và chế biến thủ công mỹ nghệ, nên việc khai thác măng cần được hạn chế nghiêm ngặt; đồng thời, sau khai thác cần phải dọn dẹp vệ sinh và phòng trừ sâu hại cho rừng.
Thường rất khó để phân biệt giữa tre lồ ô và tre thông thường.
- Tre
- Tre mỡ