Chăm sóc da là quy trình xử lý da động vật để tạo ra da thuộc, một loại vật liệu bền bỉ hơn và ít bị phân hủy hơn. Truyền thống thuộc da thường sử dụng tanin, một hợp chất hóa học có tính axit. Trong quá trình thuộc da, da có thể được nhuộm màu. Xưởng thuộc da là nơi mà da được chế biến.
Quá trình chuyển đổi da sống thành da thuộc thay đổi vĩnh viễn cấu trúc protein của da. Sản xuất 'da sống thô' (da chưa được thuộc nhưng vẫn là nguyên liệu sản xuất) không cần tanin. Da sống thô được chế biến bằng cách loại bỏ thịt, mỡ và lông bằng cách sử dụng dung dịch (như nước vôi hoặc nước tro), sau đó cạo sạch bằng dao hơi cùn và phơi khô. Các dung dịch trên không chỉ loại bỏ lông mà còn làm sạch các sợi thớ của da, giúp hóa chất thuộc da thấm sâu, do đó các bước của sản xuất da sống thô (ngoại trừ sấy khô) thường là bước đầu cho quy trình thuộc da phức tạp hơn.
Có hai phương pháp chính để thuộc da: thuộc da bằng thực vật và thuộc da bằng khoáng chất. Trước khi thuộc da, da sống cần được làm sạch lông, tẩy dầu mỡ, khử muối và ngâm trong nước từ 6 giờ đến 2 ngày. Để ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn trong thời gian ngâm, có thể sử dụng các loại thuốc diệt khuẩn như dithiocacbamat. Các loại thuốc diệt nấm như TCMBT, 2- (thiocyanomethylthio) benzothiazol, cũng có thể được thêm vào sau để bảo vệ da thuộc ẩm khỏi nấm mốc. Từ sau năm 1980, việc sử dụng pentachlorophenol và thuốc diệt khuẩn chứa thủy ngân cùng các dẫn xuất của chúng đã bị cấm.
Thuộc da bằng phương pháp thực vật
Phương pháp thuộc da bằng thực vật sử dụng tanin, một nhóm hóa chất polyphenol tự nhiên có trong vỏ cây và lá của nhiều loại thực vật. Tanin kết hợp với các protein collagen trong da, làm cho da trở nên ít thấm nước và khó bị vi khuẩn, nấm mốc tấn công hơn. Quy trình này cũng làm cho da trở nên mềm mại hơn. Các loại vỏ cây thường dùng trong thuộc da hiện nay bao gồm các loài thuộc các chi Castanea, Quercus
Thuộc da bằng khoáng chất
Thuộc da bằng crom
Trước khi sử dụng hóa chất crom trong quá trình thuộc da, cần thực hiện một số bước chuẩn bị để biến da sống thành da có thể thuộc. Các bước này bao gồm: cạo lông (loại bỏ lông), tẩm vôi (ngâm da vào dung dịch kiềm như natri hydroxide), khử vôi (điều chỉnh pH về mức trung hòa), ngâm mềm da bằng enzyme, và ngâm chua (hạ pH của da sống bằng muối và axit sulfuric).
Khi thêm crom vào quá trình thuộc da, độ pH phải rất thấp để đảm bảo các phức chất crom đủ nhỏ để lấp đầy các khoảng trống giữa các sợi và collagen còn lại. Khi mức thấm crom đã đạt yêu cầu, độ pH của da sẽ được nâng lên để hỗ trợ quá trình thuộc da, bước này gọi là kiềm hóa. Da thuộc bằng crom thường có màu xanh lam khi chưa hoàn thiện, được gọi là da xanh ẩm. Phương pháp thuộc da bằng crom nhanh hơn so với thuộc da bằng thực vật (chưa đến một ngày cho giai đoạn này) và tạo ra da có khả năng co giãn, lý tưởng cho sản xuất ví, túi xách và quần áo.
Thuộc da bằng khoáng chất khác
Da thuộc bằng khoáng chất chứa crom được gọi là da xanh ẩm, trong khi da thuộc bằng phèn, muối zirconi, titan, sắt, hoặc các kết hợp của chúng sẽ tạo ra da trắng ẩm. Da trắng ẩm là giai đoạn bán thành phẩm, giống như da xanh ẩm nhưng thân thiện với môi trường hơn. Nhiệt độ co rút của da trắng ẩm dao động từ 70-85 °C, trong khi da xanh ẩm có nhiệt độ co rút từ 95-100 °C.
Phương pháp thuộc da truyền thống của người Việt
Theo truyền thuyết, nghề thuộc da ở Việt Nam có từ thời nhà Mạc. Một vị quan tên Nguyễn Thời Trung, quê ở làng Trắm, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng (nay là huyện Gia Lộc, Hải Dương), đã học nghề thuộc da khi đi sứ sang Trung Quốc và đem về truyền lại.
Da thường được sử dụng là da trâu hoặc da bò, được ngâm trong nước khoảng sáu giờ, sau đó trộn với vôi và đảo đều hàng ngày. Sau một tháng, da được vớt ra, rửa sạch, cạo lông và cắt xén. Để nhuộm màu đỏ, dùng nước vỏ vẹt ngâm trong khoảng một tháng. Để tạo màu vàng, hơ da trên lửa trong khoảng năm ngày. Ngoài ra, phèn chua cũng được dùng để nhuộm da trắng.