Chanh Thái | |
---|---|
Quả chanh trên cây | |
Phân loại khoa học | |
Giới: | Plantae |
nhánh: | Tracheophyta |
nhánh: | Angiospermae |
nhánh: | Eudicots |
nhánh: | Rosids |
Bộ: | Sapindales |
Họ: | Rutaceae |
Chi: | Citrus |
Loài: | C. hystrix
|
Danh pháp hai phần | |
Citrus hystrix DC. | |
Map of inferred original wild ranges of the main Citrus cultivars, with C. hystrix in pale green | |
Các đồng nghĩa | |
|
Chanh Thái Lan, hay còn gọi là chúc (danh pháp hai phần: Citrus hystrix) thuộc chi Cam chanh, là một loài bản địa của Lào, Indonesia, Malaysia và Thái Lan, hiện được trồng rộng rãi trên thế giới để làm gia vị, hương liệu và mỹ phẩm. Lá của loại cây này, lá chanh kaffir, là một gia vị đặc trưng trong ẩm thực Thái Lan, tạo nên món tom yum nổi tiếng toàn cầu, khiến cây thường được gọi với tên cây 'chanh Thái'. Tại Việt Nam, cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi nhưng phổ biến nhất ở vùng Bảy Núi, An Giang.
Tên gọi khác
Cây chanh Thái Lan có nhiều tên gọi khác nhau trên thế giới. Trong tiếng Anh là kaffir lime, tại Thái Lan là mắc rụt (มะกรูด, makrut). Tại miền Bắc Việt Nam cây được gọi là trấp (chấp, giấp), còn ở An Giang miền Tây Nam Bộ gọi là trúc (chúc) hay trúc thơm. Các quốc gia Đông Nam Á và Nam Á cũng có nhiều tên gọi khác nhau: ở Myanmar là shauk-nu (shauk-waing), Campuchia là krauch soeuch (ក្រូចសើច), Malaysia là limau purut, Lào là makgeehoot, Madagascar là combava (combawa, cumbava, cumbaba), Sri Lanka là kahpiri dehi (odu dehi, kudala dehi), Indonesia là jerul purut
Đặc điểm nhận dạng
Chanh Thái là cây thân gỗ có chiều cao từ nhỏ đến trung bình, khi trưởng thành cao từ 2 m đến 10 m. Thân có gai ngang. Mầm không xanh. Lá hình xoan thuôn hay ngọn giáo, mép khía răng hoặc nguyên, chóp tròn hoặc lõm, đôi khi nhọn, màu xanh thẫm, thùy kép, mọc đối, cuống lá có cánh rộng, đôi khi to bằng phiến lá (tạo nên hình lá gần giống số 8 nên còn gọi là 'lá chanh số 8'), lá có tinh dầu, mùi thơm nồng. Hoa nhỏ, trắng hoặc vàng nhạt, xếp thành bó hoặc chùm ngắn ở nách lá, cánh hoa cao 7-10 mm; nhị 24-30, rời. Quả tròn, vỏ nhăn nheo sần sùi, màu lục, khi chín chuyển vàng, vỏ khá dày, thịt quả màu vàng xanh, ít nước nhưng rất chua. Cây ra hoa quả quanh năm.
Công dụng
Toàn cây có tinh dầu thơm nên được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực, dược phẩm và mỹ phẩm, trong đó lá và quả (nước cốt, vỏ quả) là hai bộ phận được dùng nhiều nhất. Đầu bếp Dương Huy Khải, một trong hai người châu Á được Viện Hàn lâm Ẩm thực Thế giới vinh danh, cho biết mùi thơm của lá chanh Thái mạnh gấp năm lần chanh thường.
Lá chanh Thái có vị the như lá chanh ta nhưng thơm nồng và gắt hơn, kích thích mạnh khứu giác và dịch vị, giúp khử tanh các món giàu protein như bò, gà, lươn và trợ tiêu hóa. Có người cho rằng lá là sự pha trộn giữa hương vị lá chanh, lá bưởi non và tinh dầu lá cari tươi. Lá không bị đắng và giữ hương dù nấu lâu, được dùng trong nhiều món ăn Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Indonesia, Philippines, Bangladesh, Malaysia và nhiều nơi khác. Trong ẩm thực Thái, lá non được ăn sống như rau salad, lá bánh tẻ và lá già dùng trong cari, súp Thái, Tod Mun (chả cá Thái), lẩu Thái, món cá hấp Haw Moak, Pok Taek, làm siro đường, hấp cùng cơm, chế vào nước sốt ướp thịt lợn, thịt cừu, thịt gà. Trong ẩm thực Việt Nam vùng Bảy Núi, lá chanh Thái dùng cho món thịt gà hấp, thái chỉ rắc lên gà luộc; các loại hải sản hấp (cá lóc, ốc, ngao, sò); xào lăn (lươn, ếch, rắn nước); kho (cá, thịt); làm gỏi (hến, gà); nấu lẩu hay canh chua; làm giả cầy.
Lá có thể dùng tươi, bảo quản trong ngăn đông tủ lạnh hoặc phơi khô để sử dụng lâu dài. Lá già thường được xé nhỏ, bỏ gân và cuống để tránh bị đắng, lá khô nên đập nhuyễn trước khi dùng.
Lá chanh Thái trong dân gian còn được dùng để khử khuẩn ao nuôi cá, trị bệnh cho người và gia cầm, gia súc; kết hợp với sả, gừng để nấu nước tắm.
Quả chanh Thái có nước cốt chua gắt, hơi the, dùng để ăn tươi, vắt nước chấm, khử tanh hải sản hay lòng bò, làm mứt. Vùng Tri Tôn, An Giang nổi tiếng với món cháo bò trái trúc, món ăn giao thoa văn hóa Khmer và Việt, và món gà hấp lá trúc. Quả cũng thường được ngâm rượu chữa đau bụng hay cảm mạo, gội đầu trị gàu hay tắm rửa.
Vỏ quả làm hương liệu khử mùi, làm sạch và tạo hương cho nước uống; làm dược liệu trị bệnh tiêu hóa, giải cảm, chống nôn, chống say xe; chiết xuất tinh dầu làm mỹ phẩm. Vỏ cây cũng được dùng làm hương liệu, với vị đặc trưng dịu đồng thời đắng và cay.
Cây dễ trồng, sống khỏe, chịu hạn giỏi, lá và quả độc đáo, cây cũng được trồng làm cảnh tại nhiều gia đình.
Thông tin bổ sung
Quả chanh Thái có thể được phơi sấy làm thuốc mang tên chỉ thực (Fructus ponciri Immaturi, Fructus aurantii Immaturi) và chỉ xác (Fructus Citri Aurantii). Tuy nhiên, hai vị thuốc này có thể được làm từ quả thuộc chi Citrus hay Poncirus như cây Hương duyên Citrus wilsonii Tanaka; cây Câu quất Poncirus trifoliata (L.) Raf; cây Toan đằng Citrus aurantium L.; cây Đại đại hoa Aurantium L. var amara Engl và nhiều cây khác họ Cam (Rutaceae) tại Việt Nam và Trung Quốc.
Tại một số nơi ở Việt Nam, dân gian gọi tên 'trấp', 'chấp', 'dấp' cho một loài cây nào đó thuộc họ Cam (Rutaceae), nhưng không phải là cây chanh Thái.
Hình ảnh
Ghi chú
Chi Cam chanh |
---|