
Chào mào | |
---|---|
P. j. pyrrhotis (Nepal) | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo) | Passeriformes |
Họ (familia) | Pycnonotidae |
Chi (genus) | Pycnonotus |
Loài (species) | P. jocosus |
Danh pháp hai phần | |
Pycnonotus jocosus (Linnaeus, 1758) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Chào mào (Pycnonotus jocosus) là một loài chim thuộc bộ Sẻ, phân bố chủ yếu ở châu Á. Đây là thành viên của họ Chào mào và là loài ăn quả thường trú trong các khu vực nhiệt đới của châu Á. Chào mào đã được đưa đến nhiều khu vực nhiệt đới khác trên thế giới, nơi chúng đã tự hình thành quần thể. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ, thường dễ dàng được nhìn thấy khi đậu trên cây và kêu to ba hoặc bốn lần. Chúng rất phổ biến trong các khu rừng đồi và vườn đô thị trong phạm vi phân bố. Chào mào nổi bật với cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phần trên “mảng” trắng có màu đỏ, vì vậy chúng được gọi là râu đỏ (red-whiskered) trong tiếng Anh. Ở Việt Nam, chúng có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo vùng miền, như chóp mào, hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ, nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là chào mào.
Phân loại và hệ thống học
Chào mào lần đầu tiên được mô tả dưới chi Lanius vào năm 1758 bởi Carl Linnaeus trong tác phẩm Systema Naturae của ông. Trong điều kiện nuôi nhốt, các giống lai của chào mào đã được ghi nhận, bao gồm bông lau đít đỏ, chào mào tai trắng, chào mào kính trắng, chào mào mũ đen và chào mào Himalaya. Hội chứng bạch thể cũng đã được ghi nhận.
Các phân loài
Chín phân loài đã được công nhận:
- P. j. fuscicaudatus - (Gould, 1866): Được mô tả lần đầu như một loài riêng biệt, sống ở miền tây và trung Ấn Độ. Đặc trưng với dải vú gần như hoàn chỉnh và không có đầu trắng ở đuôi.
- P. j. abuensis - (Whistler, 1931): Phân bố ở tây bắc Ấn Độ (đặc biệt là Mount Abu). Có màu nhạt hơn và dải vú bị đứt, không có đầu trắng ở đuôi.
- P. j. pyrrhotis - (Bonaparte, 1850): Ban đầu được phân loại dưới chi Ixos. Sống ở Terai của miền bắc Ấn Độ và Nepal. Đặc trưng với màu sáng ở trên và đuôi trắng cùng dải ngực tách biệt rõ ràng.
- P. j. emeria - (Linnaeus, 1758): Ban đầu được mô tả dưới chi Motacilla. Phân bố từ đông Ấn Độ đến tây nam Thái Lan, có màu nâu ấm và cái mào dài (cũng được tìm thấy ở Florida).
- P. j. whistleri - Deignan, 1948: Sống ở quần đảo Andaman với bộ lông nâu ấm và mỏ nặng hơn, mào ngắn hơn so với P. j. emeria.
- Chào mào râu đỏ Trung Quốc (P. j. monticola) - (Horsfield, 1840): Được mô tả lần đầu dưới chi Ixos, phân bố từ đông Himalaya đến bắc Myanmar và nam Trung Quốc, có màu sẫm hơn so với P. j. pyrrhotis.
- P. j. jocosus - (Linnaeus, 1758): Sống ở đông nam Trung Quốc.
- P. j. hainanensis - (Hachisuka, 1939): Phân bố trên đảo Hải Nam (ngoài khơi đông nam Trung Quốc).
- P. j. pattani - Deignan, 1948: Sống từ miền nam Myanmar và bắc bán đảo Mã Lai qua Thái Lan và nam Đông Dương.
Mô tả
Chào mào có chiều dài khoảng 20 cm. Phần trên của cơ thể có màu nâu, trong khi phần dưới màu trắng với hai bên sườn bóng và một dải sẫm màu chạy ngang bầu ngực. Đặc trưng với mào đen nhọn cao, mặt đỏ và đường viền đen mỏng. Đuôi dài và nâu, với đầu lông trắng, nhưng vùng lỗ thông hơi có màu đỏ. Con non thiếu mảng đỏ phía sau mắt và lỗ thông hơi có màu cam đỏ.
Tiếng gọi đặc trưng của chào mào là kink-a-joo sắc nét (cũng được ghi âm là pettigrew, kick-pettigrew hoặc rất vui được gặp bạn) và bài hót của chúng giống như một cuộc tán gẫu mắng mỏ. Chúng thường được nghe thấy nhiều hơn là nhìn thấy, nhưng thường dễ dàng phát hiện khi chúng đậu vào buổi sáng và kêu từ ngọn cây. Tuổi thọ của chào mào khoảng 11 năm.
Phạm vi phân bố và môi trường sống

Loài chim này ưa thích các khu vực rậm rạp, đất đai thoáng đãng với nhiều bụi rậm và đất trồng trọt. Đã có nhiều ghi chép về sự xuất hiện của chúng, ví dụ như Thomas C. Jerdon đã quan sát rằng chúng 'thường xuyên đến thăm Madras và các khu vực cây cối rậm rạp khác theo đàn lớn.'
Chào mào đã được đưa vào sinh sống tại Úc, Los Angeles, Hawaii, và Florida ở Hoa Kỳ, cùng với Mauritius, Đảo Assumption và Quần đảo Mascarene. Tại Florida, chúng chỉ xuất hiện ở một khu vực nhỏ và quần thể của chúng có nguy cơ bị tiêu diệt dễ dàng. Chúng đã bị xóa sổ khỏi Đảo Assumption vào năm 2013–2015 để ngăn chặn sự xâm chiếm của loài chim thuộc địa gần đó từ Aldabra, hòn đảo nhiệt đới lớn nhất không có loài chim lớn nào được giới thiệu.
Loài chim này được giới thiệu bởi Hiệp hội Động vật học và Khí hậu du nhập vào năm 1880 tại Sydney, sau đó nhanh chóng lan rộng ra các vùng ngoại ô vào năm 1920 và tiếp tục mở rộng khoảng 100 km. Hiện nay, chúng cũng có mặt ở ngoại ô Melbourne và Adelaide, mặc dù cách chúng đến đó vẫn chưa được rõ ràng.
Hành vi và môi trường sống

Tại đảo Réunion, loài chim này đã tự thiết lập và còn góp phần vào sự phát triển của các loài thực vật ngoại lai như Rubus alceifolius. Ở Florida, chúng ăn trái cây và quả mọng của 24 loại thực vật khác nhau, bao gồm nhót tây (Eriobotrya japonica), Lantana spp., tiêu Brazil (Schinus terebinthifolius) và sung (Ficus). Tại Mauritius, chúng hỗ trợ sự phân tán của Ligustrum robustum và Clidemia hirta. Hạt giống qua hệ tiêu hóa của chúng có tỷ lệ nảy mầm cao hơn. Các quần thể chào mào trên đảo Reunion đã phát triển đa dạng trong suốt ba mươi năm và cho thấy những biến thể rõ ràng về hình thái mỏ dựa trên loại thức ăn mà chúng đã thích nghi.
Reproduction


Mùa sinh sản của chào mào kéo dài từ tháng 12 đến tháng 5 ở miền nam Ấn Độ và từ tháng 3 đến tháng 10 ở miền bắc Ấn Độ, với khả năng sinh sản một hoặc hai lần trong năm. Con đực thực hiện màn tán tỉnh bằng cách cúi đầu, xòe đuôi và rủ cánh. Tổ của chúng có hình dạng chén, được xây trên bụi cây, tường tranh hoặc cành cây nhỏ, được dệt từ cành, rễ cây và cỏ mịn, và trang trí bằng các vật liệu lớn như vỏ cây, giấy hoặc túi nhựa. Tổ thường chứa từ hai đến ba quả trứng. Con trưởng thành, có thể là con cái, có thể giả vờ bị thương để bảo vệ tổ khỏi kẻ săn mồi. Trứng có màu hoa cà nhạt với các đốm nhỏ, kích thước khoảng 21 mm x 16 mm và nở sau 12 ngày. Cả con cha và con mẹ đều chăm sóc con non. Chim non được cho ăn sâu bướm và côn trùng, sau đó dần chuyển sang trái cây và quả mọng khi trưởng thành. Trứng và con non có thể bị săn bởi bìm bịp lớn và quạ.
Trong mùa sinh sản, chào mào bảo vệ lãnh thổ rộng khoảng 3.000 mét vuông và thường tập trung thành đàn lớn từ một trăm con trở lên.
Chế độ ăn uống
Chào mào chủ yếu ăn trái cây (bao gồm cả thông thiên độc hại cho động vật có vú), mật hoa và côn trùng.
Nguy cơ đe dọa
Một số loại ký sinh trùng sốt rét thuộc chi đã được ghi nhận trên loài chim này.
Quan hệ với con người
Chào mào từng là loài chim lồng rất phổ biến ở nhiều khu vực của Ấn Độ. C. W. Smith ghi nhận rằng:
- Những con chim này được ưa chuộng bởi người dân địa phương, vì tính cách hiền lành và dễ huấn luyện. Chúng có thể được dạy ngồi trên tay, và vì vậy, bạn có thể dễ dàng thấy chúng trong bất kỳ chợ nào ở Ấn Độ.
Loài chim này vẫn là một lựa chọn phổ biến cho những người nuôi chim lồng ở các khu vực Đông Nam Á.
- Deignan, H. G. (1948) Các chủng loài của Chào mào râu đỏ, Pycnonotus jocosus (Linnaeus). J. Washington Acad. Sci. 38(8), 279-281.
- Fraser, F. C. (1930) Ghi chép về thói quen làm tổ của Chào mào râu đỏ phía Nam (Otocompsa emeria fuscicaudata). J. Bombay Nat. Hist. Soc. 34(1), 250-252.
- Michael, Bindhu (1997). Amrithraj, M.; Pillai, K. Madhavan. “Một ghi chú về nhiễm Isospora ở Chào mào râu đỏ phía Nam (Pycnonotus jocosus fuscicaudatus)”. Zoos' Print. 12 (12): 5.
- Kinloch, A. P. (1922). “Sự làm tổ của Chào mào râu đỏ phía Nam Otocompsa emeria fuscicaudata”. Journal of the Bombay Natural History Society. 28 (2): 545.
Liên kết hữu ích
- Chào mào râu đỏ trên Bộ sưu tập Chim Internet
- Mangoverde
- Tuổi tác và phân biệt giới tính
- [1] Hướng dẫn chăm sóc Chào mào