Văn mẫu lớp 11: Phân tích Nghị luận Bài ca ngất ngưởng là một chủ đề rất thú vị trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 - Chân trời sáng tạo tập 2.
Nghị luận về bài thơ Bài ca ngất ngưởng mang lại các bài văn mẫu xuất sắc nhất từ các học sinh giỏi, cung cấp nhiều tư liệu hữu ích để củng cố kiến thức và phát triển kỹ năng viết văn nghị luận. Ngoài ra, bạn cũng có thể xem thêm: Hướng dẫn viết văn nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, tác phẩm điêu khắc).
Phân tích Nghị luận về bài thơ Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc ta trong giai đoạn đầu của thế kỷ XIX. Ông được biết đến với tài năng văn chương tài ba, có sức ảnh hưởng lớn trong lịch sử văn hóa. Ông đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời, nhưng luôn giữ vững tinh thần nam nhi, cam kết với sự công bằng và lẽ phải, sống vì một mục tiêu cao cả:
'Đã lưu danh vang bóng trời đất,
Phải có tên gì với núi sông'.
Sự sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ rất rực rỡ, thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo qua bài thơ Nôm 'Hàn nho phong vị phủ', và hơn 60 bài thơ tài hoa khác. 'Bài ca ngất ngưởng' là một trong những tác phẩm văn học tuyệt vời nhất trong văn học dân tộc. Bài thơ này gồm hai khổ dài, tổng cộng 19 câu thơ rất lôi cuốn, với giai điệu hùng tráng, lúc u buồn, lúc hào hùng, khiến người đọc rất thú vị. Đây là một thể thơ dân tộc, cấu trúc chặt chẽ, mang đậm nghệ thuật, kết hợp hài hòa giữa thơ và nhạc.
Nguyễn Công Trứ trở thành chí sĩ vào năm 1848, sau hơn 30 năm phục vụ dưới triều Nguyễn. 'Bài ca ngất ngưởng' được ông sáng tác sau khi đã trở thành chí sĩ ở quê nhà. Bài thơ này như một bản tự thuật về cuộc đời, thể hiện tự hào về tài năng, danh vọng của mình, phản ánh cá tính, phong cách sống tự do, phóng khoáng của ông.
'Ngất ngưởng' ở đây có nghĩa là không gì có thể kiềm chế được, không gì có thể kìm nén được (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ, 'ngất ngưởng' là biểu tượng cho một cá nhân khác biệt, một lối sống độc lập và không ngại khó khăn. Nguyễn Công Trứ đã làm cho khái niệm 'ngất ngưởng' trở thành một bài hát, một giai điệu tinh thần tự hào và quyến rũ.
Khổ thơ đầu cao ráo một tiếng nói, một lời tuyên bố của một người đàn ông kiên cường, tài năng. Rất trang trọng và hùng vĩ: 'Mọi sự trong vũ trụ đều là số phận của chúng ta' — tất cả mọi việc trong vũ trụ đều thuộc về chúng ta. Một phát ngôn phủ định mạnh mẽ để khẳng định tư cách của một người trí thức. Với 'Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng'. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. 'Tài bộ' đề cập đến tài năng vượt trội. Từ 'lồng' ở đây có nhiều cách hiểu khác nhau. 'Vào lồng' có thể là vào hành lang của hoàng cung, nơi hạn chế, hẹp hòi, một biểu tượng của sự cần cù, khổ luyện trong cuộc sống. Hay 'vào lồng' cũng có thể hiểu là vào vũ trụ, thế giới. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: 'Đã mang tiếng ở trong trời đất', hoặc 'Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn'. Cách hiểu thứ hai này là hợp lý nhất, bởi chỉ khi bước vào lồng vũ trụ, ta mới có ý chí đấu tranh, như ông nói:
'Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho dốc sức vượt biển khơi, núi sông'.
Sau khi đã gây dựng danh tiếng, nhà thơ tự khẳng định lòng dũng cảm, tài năng của mình, tính cách nam tính của mình với quyết tâm vô cùng mạnh mẽ.
Ông Hi Văn là một nhân vật có uy danh và tài năng thực sự. Trong học tập và thi cử, ông đã dám thách thức mọi thử thách: 'Nợ nần cuộc đời phải trả trọn'. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa tại trường Nghệ An. Trong quân giới, ông giữ chức Tham tán; trong quản lý, ông là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Với danh tiếng lẫy lừng 'Chí anh hùng'. Ông đứng trên đỉnh cao của danh vọng với tài năng đa dạng, từ văn chương đến võ thuật, và chính lúc đó, ông Hi Văn mới thực sự trở thành 'người vượt lên trên tất cả', một cá nhân vượt bậc và vượt xa mọi dự đoán. Ba lần sử dụng từ 'khi' đã tạo ra một giai điệu hùng vĩ, thể hiện một tâm hồn phi thường, một ý chí mạnh mẽ:
'Khi là Thủ khoa! Khi là Tham tán ! Khi là Tổng đốc Đông,
Đã nên tay người vượt lên trên hết'.
Bốn câu tiếp theo (phần thân), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định bản thân là một con người, một kẻ sĩ có tài năng đa dạng. Trong thời kỳ loạn lạc, ông tham gia vào chiến trường, giữ trách nhiệm quân sự trước ba quân: 'Đứng ở tay cờ binh đoàn đại tướng'. Trong thời bình, ông đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ quốc gia và vua chúa, đảm nhận vai trò 'Phủ đốc Thừa Thiên'. Điều này xảy ra vào năm 1847, khi Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao của danh vọng. Ông từng nói: 'Khi làm Đại tướng, ta không xem danh vọng là quan trọng, khi làm lính thú, ta cũng không coi danh vọng là sự nhục nhã'. Sau 30 năm phục vụ, Nguyễn Công Trứ đã trở về quê hương với tư cách là một người lương thiện, vào năm 1848, ông đã bước sang tuổi 70:
'Đô môn giải tổ chi niên,
Đeo bò vàng, cưỡi ngựa, hứng vinh quang'.
Trong cuộc sống hàng ngày, cụ Thượng Trứ hành động một cách lạ lùng, như muốn trêu đùa với cuộc đời bằng sự ngất ngưởng. Người quan trọng ngày xưa giờ chỉ cưỡi con bò vàng và cho bò đeo đồ ngựa. Cả người lẫn con bò đều đeo đạc và ngất ngưởng. Đây như là một thách thức với số phận. Cho đến nay, mọi người vẫn cười và ghi nhớ bài thơ gắn liền với chiếc mo cau của ông Hi Văn như thế:
'Xuống ngựa, lên xe, tưởng nhẹ nhàng.
Chẳng may bị giáng chức, thăng quan.
Đi dạo đồng với chiếc xe bò cái,
Có mo cau che miệng thế gian'.
Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi miêu tả một cuộc sống đầy ngất ngưởng. Người từng là danh tướng, người từng cầm kiếm nay sống cuộc sống giản dị, hiền lành 'trở thành người từ bi'. Đi thăm chùa, chiêm ngưỡng những cảnh đẹp thiên nhiên 'Núi nọ phủ mây trắng', ông cũng đưa theo 'một đôi dì', những người phụ nữ hầu như tiên tử với 'gót dép cao quý'...
'Núi kia phủ mây trắng lạ thường,
Người kiếm cung nay trở từ bi.
Đôi dì dẫn dắt, gót dép cao,
Thần tiên cũng phải cười ngất ngưởng...'
Ông đã sống hết mình và chơi hết mình. 'Bụt cũng nên cười với ông ngất ngưởng' là một bức tranh thơ độc đáo. Câu thơ này vừa hóm hỉnh vừa sâu sắc. Ai cười, thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn cười cho mình? Sau khi thoát khỏi vòng vây của danh vọng, thì những sự đắng cay hay ngọt ngào đều trở nên vô nghĩa, giống như câu chuyện 'Thất mã tái ông' vậy, không còn mối quan tâm nào! Những lời khen chê của người khác, xin hãy phớt lờ đi, như cơn gió đông (xuân) thoảng qua. Chỉ có lòng can đảm, lòng tin vào bản thân về tài năng và phẩm đức mới khiến ta có thể phủ định mọi thứ, dám sống bên ngoài những quy tắc thông thường. Chỉ khi hiểu rõ rằng Nguyễn Công Trứ là một người được hình thành từ việc học tập ở cửa Khổng sân Trình, một quan lại lớn của triều Nguyễn, chúng ta mới hiểu được phần nào về bản tính và cách sống độc đáo, phóng túng, yêu đời và có tài tình hiếm có của ông. Không màng đến việc 'thắng, thua', hãy phớt lờ mọi lời nói, sự khen chê, ông đã sống một cách thanh thản, hồn nhiên, vô cùng thoải mái, vui vẻ. Dù có ngất ngưởng nhưng vẫn trong sáng, cao quý. Dưới đây là hai câu thơ tuyệt vời từ 'Bài ca ngất ngưởng':
'Khi hát / khi uống / khi ăn / khi ngủ /
Không Phật / không Tiên / không bị trói buộc'.
Cách phân chia nhịp điệu 2, kỹ thuật hoà âm (bằng, trắc), lối nhấn và diễn đạt trùng hợp (khi... không..,) đã tạo nên sự giàu có của câu thơ về mặt âm nhạc, thể hiện một tinh thần thư thái, yêu cuộc sống, ham mê cuộc sống, thanh cao không chút lẫn lộn với thế gian. Chỉ khi đọc to và cất lên tiếng ca, khi lắng nghe âm thanh của những cây đàn đồng, nhịp điệu, tiếng trống, chúng ta mới cảm nhận được sự hòa quyện của thơ và nhạc trong những vần thơ tuyệt vời như thế! Đúng là ngất ngưởng với tài hoa, tài năng.
Bài thơ chỉ có 3 câu thôi. Câu cuối cùng chỉ 6 từ. Nên theo văn bản 'Tuyển tập thơ ca trù' - NXB Văn học 1987 thì mới chính xác:
'Không Trái, Nhạc cũng tham gia cùng Hàn, Phú,
Nghĩa vua, tôi hiểu đạo từ bi chung,
Trong triều không ai ngất ngưởng như ông!'
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần trung thành, trọn vẹn 'nghĩa vua tôi'. Ông đã viết trong bài 'Nợ tang bồng':
'Chí tang bồng hẹn với sông núi,
Đường trung hiếu, quân thân gánh vác'.
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có thua kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. So sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng 'ông' đầy uy nghi: 'Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'. Bản ngã phi thường của nhà thơ được phô diễn cực độ.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải 'vẹn đạo vua tôi' mới trở thành 'tay ngất ngưởng', 'ông ngất ngưởng' được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không gò bó, không vướng bận, cũng không thoát khỏi. Ngất ngưởng thế mới tinh tế.
Cái tên, đề tài 'Bài ca ngất ngưởng' của ông Hi Văn vô cùng độc đáo. Cách biểu lộ bản thân của nhà thơ cũng vô cùng độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trữ tình đậm đà chất 'ngông'. Một mặt ngất ngưởng về tài danh, một mặt thái độ ngông nghênh về cuộc sống và tình yêu.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Câu thơ chữ Hán toát lên vẻ uyển bác, bề thế. Sự kết hợp hoàn hảo giữa chất thơ và chất nhạc tạo nên một tác phẩm cuốn hút, lôi cuốn.
Trong dòng thơ cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những tên tuổi vang bóng để lại những bài hát nói vĩ đại. Nguyễn Công Trứ đã tạo ra một phong cách mạnh mẽ, hùng vĩ, hòa quện chất tài tử và chí anh hùng, nổi danh với tinh thần nam nhi, nợ tang bồng. Đó chính là nét độc đáo, bản sắc của thơ hát nói do ông Hi Văn sáng tạo. 'Bài ca ngất ngưởng' thật sự là một tác phẩm từ tâm hồn sâu thẳm của ông, mang lại cho chúng ta nhiều trải nghiệm thú vị.