Ngọc trai | |
---|---|
Các loại ngọc trai | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật |
Công thức hóa học | CaCO3 |
Nhận dạng | |
Màu | Trắng, hồng, bạc, kem, nâu, lục, lam, đen, vàng |
Cát khai | Không |
Độ cứng Mohs | 2.5–4.5 |
Màu vết vạch | Trắng |
Tỷ trọng riêng | 2.60–2.85 |
Tán sắc | Không |
Huỳnh quang | yếu, không thể đánh giá được. Màu đen chính hãng: Đỏ đến hơi đỏ River-p.: Mạnh: xanh lá cây nhạt |
Ngọc trai (trong Hán-Việt là 珍珠, còn gọi là trân châu) là những viên cầu cứng được một số sinh vật tạo ra, chủ yếu là loài nhuyễn thể như trai. Ngọc trai thường được chế tác thành đồ trang sức và có thể được xay thành bột để dùng trong các sản phẩm mỹ phẩm. Đây là một loại đá quý được nuôi trồng và thu hoạch để chế tạo trang sức. Trong Đông y, trân châu được cho là có vị ngọt nhẹ, tính bình, có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh như phong thấp, an thần, giải độc, làm sáng mắt, cải thiện lưu thông nước mắt, giảm ù tai và hoa mắt.
Những sự kiện lịch sử
Trước khi bước vào thế kỷ 20, việc thu hoạch ngọc trai chủ yếu dựa vào phương pháp mò ngọc truyền thống. Các thợ lặn thường phải lặn xuống đáy biển hoặc đáy sông để thu thập sò/trai và kiểm tra từng con để tìm kiếm ngọc. Không phải tất cả sò/trai đều có ngọc, và tỷ lệ tìm thấy ngọc hoàn hảo khá thấp. Thường thì từ 3 tấn sò, chỉ có vài viên ngọc đạt yêu cầu. Tại Việt Nam, việc mò ngọc trai đã được ghi chép nhiều trong lịch sử, nổi bật nhất là trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, trong đó ông đã chỉ trích việc quân Minh đã bóc lột người dân Việt Nam bằng cách ép buộc họ phải xuống biển mò ngọc trai để dâng nộp cho triều Minh.
Hiện nay, hầu hết ngọc trai trang sức đều là ngọc trai nuôi cấy. Trong quá trình này, một vật thể lạ, thường là mảnh vỏ trai được đánh bóng cùng với một mẫu mô của trai khác, được cấy vào cơ quan sinh dục của con trai để kích thích quá trình tạo ngọc. Các con sò ngọc ở Biển Nam và Tahiti thường được thu hoạch lần đầu và sau đó được cấy nhân lớn hơn, tiếp tục được nuôi thêm 2-3 năm trước khi thu hoạch lần nữa.
Phương pháp nuôi cấy ngọc trai Mikimoto, phát triển bởi một nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học Tokyo từ năm 1907 đến 1916, không được đăng ký bản quyền ngay lập tức. Nhóm nghiên cứu, dưới sự dẫn dắt của Nishikawa và Tatsuhei Mise, đã thành công trong việc phát triển công nghệ này. Nishikawa được cấp bản quyền vào năm 1916 và sau đó kết hôn với con gái của Mikimoto. Mikimoto chỉ bắt đầu áp dụng công nghệ này sau khi bản quyền hết hạn vào năm 1935. Ngay sau khi bản quyền được cấp, em trai của Tatsuhei đã sản xuất lứa ngọc trai thương mại đầu tiên từ trai Akoya. Mitsubishi đã nhanh chóng áp dụng công nghệ này cho trai Nam Hải ở Philippines vào năm 1917 và sau đó mở rộng ra Buton và Palau. Mitsubishi là đơn vị đầu tiên sản xuất ngọc trai nuôi ở Biển Nam, dù lứa ngọc trai thương mại đầu tiên chỉ thành công vào năm 1931. Công nghệ này đã được áp dụng cho sản xuất ngọc đen Tahiti vào thập niên 1970.
Đặc điểm tự nhiên của ngọc trai
Độ bóng của ngọc trai phụ thuộc vào khả năng phản xạ và khúc xạ ánh sáng qua các lớp vỏ trong mờ của nó. Sự lấp lánh ngũ sắc mà một số viên ngọc trai tạo ra là do ánh sáng bị tán xạ qua các lớp vỏ xếp chồng lên nhau. Ngọc trai thường có màu trắng, đôi khi có sắc kem hoặc hồng nhạt, và có thể có các màu sắc khác như vàng, xanh lá, nâu, tím hoặc đen.
Ngọc trai nước ngọt và nước mặn
Ngọc trai được phân thành hai loại chính: ngọc trai nước ngọt và ngọc trai nước mặn. Ngọc trai nước ngọt hình thành trong những con trai sống ở hồ, sông và các vùng nước ngọt khác. Hiện tại, Trung Quốc là quốc gia sản xuất chủ yếu loại ngọc trai nuôi nước ngọt. Ngược lại, ngọc trai nước mặn được sinh ra từ các loài điệp và hàu sống ở các vịnh biển. Ba loại ngọc trai nước mặn phổ biến là Akoya, Tahiti, và Nam Hải. Ở Việt Nam, việc nuôi cấy ngọc trai diễn ra tại các địa điểm như đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Nha Trang (Khánh Hòa) và Phú Quốc.
Ngọc trai tự nhiên và ngọc trai nuôi cấy
Quá trình hình thành ngọc trai
Sự khác biệt giữa ngọc trai nuôi và ngọc trai tự nhiên chủ yếu nằm ở quá trình hình thành. Ngọc trai, dù tự nhiên hay nhân tạo, đều hình thành bên trong cơ thể loài nhuyễn thể (lớp Hai vỏ) để tự chữa lành các vết thương bằng cách tiết ra chất bao bọc dị vật. Chất này gồm các lớp cacbonat calci (CaCO3) dưới dạng aragonit hoặc calcit, kết hợp với hợp chất hữu cơ gọi là conchiolin, tạo thành xà cừ. Thực tế, tác nhân kích thích không phải lúc nào cũng là hạt cát mà thường là chất hữu cơ, ký sinh trùng, hoặc tổn hại chuyển lớp màng áo. Ngọc trai nuôi được tạo ra bằng cách cấy một miếng biểu mô và hột làm từ vỏ trai vào cơ quan sinh dục của con trai để tạo ra viên ngọc.
Ngọc trai tự nhiên
Ngọc trai tự nhiên chủ yếu được cấu thành từ xà cừ. Quá trình hình thành ngọc trai tự nhiên thường xảy ra khi một vật lạ nhỏ, như hạt cát, xâm nhập vào con sò hoặc con trai. Để đối phó với sự xâm nhập này, con trai sẽ tạo ra lớp xà cừ bao quanh vật lạ, và quá trình này kéo dài nhiều năm để hình thành viên ngọc.
Ngọc trai nuôi cấy
Ngọc trai nuôi, bao gồm cả loại có nhân và không có nhân, có thể phân biệt với ngọc trai tự nhiên bằng cách kiểm tra X quang. Nhân của ngọc trai nuôi do con người tạo ra và có hình dạng giống như nhân cấy vào. Sau khi cấy, con trai sẽ hình thành các lớp xà cừ quanh nhân trong khoảng 6 tháng. Kiểm tra X quang sẽ cho thấy nhân ngọc trai nuôi có cấu trúc khác biệt so với ngọc trai tự nhiên, với tâm đặc và không có các vòng đồng tâm chồng lên nhau, trong khi ngọc trai tự nhiên có các vòng xuyến chồng lên nhau. Ngọc trai tự nhiên có thể có tâm xà cừ đặc hoặc hoàn toàn là trân châu và thường có hình dạng không đồng đều hơn so với ngọc trai nuôi.
Giá trị của ngọc trai tự nhiên
Ngọc trai tự nhiên là loại trang sức quý hiếm và có giá trị như đá quý, tùy thuộc vào kích cỡ, hình dạng và chất lượng của viên ngọc. Do nguồn cung hạn chế vì số lượng trai và sò tự nhiên giảm sút, ngọc trai tự nhiên ngày càng trở nên hiếm hoi. Hầu hết ngọc trai tự nhiên được bán cho các nhà sưu tập và hiếm khi được sử dụng làm trang sức như dây chuyền.
Nguồn gốc của ngọc trai tự nhiên
Trước đây, ngọc trai tự nhiên có mặt khắp nơi trên thế giới, nhưng ngày nay chỉ còn được khai thác chủ yếu ở các vùng biển ngoài khơi Bahrain. Úc cũng là một trong những quốc gia duy trì đội tàu lặn mò trai ngọc. Các thợ lặn Úc bắt những con sò ngọc trai để nuôi cấy ngọc, với số lượng sò bắt được tương tự như thời kỳ mò sò tự nhiên trước đây. Do đó, vẫn còn một lượng đáng kể ngọc trai tự nhiên được tìm thấy ở vùng biển Ấn Độ Dương thuộc Úc. Ngọc trai có thể được tìm thấy ở biển và các vùng nước ngọt lớn.
Các loại ngọc trai tự nhiên khác nhau
Ngọc trai đen, thường được gọi là ngọc trai đen Tahiti, rất quý hiếm và được đánh giá cao. Việc nuôi cấy ngọc đen cho sản lượng thấp do loài sò, trai này có sức khỏe kém, khó sống sót và thường đào thải vật lạ. Trước khi ngọc trai đen được nuôi cấy, chúng rất hiếm và có giá trị cao vì loài sò, trai này ít khi tạo ra ngọc đen và cũng rất hiếm gặp.
Ngọc trai đen quý hiếm hơn ngọc trai nước ngọt Trung Quốc và ngọc trai Akoya của Nhật Bản và Trung Quốc, do đó có giá trị cao hơn. Tuy nhiên, ngọc trai Nam Hải còn hiếm và có giá trị cao hơn cả ngọc trai đen. Điều này là do loài trai Pinctada margaritifera tạo ngọc đen phổ biến hơn so với loài trai Pinctada maxima tạo ngọc Nam Hải, loài này rất hiếm và thường phải lặn sâu mới tìm thấy. Ngọc trai đen được tạo từ loài trai Pinctada margaritifera không phải là ngọc trai Nam Hải, mặc dù thường bị nhầm lẫn. Theo định nghĩa chính thức của CIBJO và GIA, ngọc trai Nam Hải là loại ngọc trai được tạo ra từ loài trai Pinctada maxima. Màu sắc của viên ngọc Nam Hải là màu sắc của con trai Pinctada maxima tạo ra, có thể là trắng, bạc, hồng, vàng, kem hoặc sự kết hợp của những màu này, bao gồm cả các sắc màu cầu vồng trên lớp xà cừ. Hiện nay, còn có cả ngọc trai nhiều màu sắc như hồng, xanh...
Viên ngọc trai lớn nhất
Viên ngọc trai lớn nhất được phát hiện vào năm 1934 tại Philippines, nặng 14 lb (6,4 kg). Một người thợ lặn Hồi giáo Philippines vô danh đã tìm thấy viên ngọc này ngoài khơi đảo Palawan. Sau đó, một tù trưởng Palawan đã tặng viên ngọc này cho Wilbur Dowell Cobb năm 1936 để trả ơn cứu sống con trai mình. Ban đầu, viên ngọc này được gọi là 'Trân châu của Allah', hiện nay được gọi là 'Viên trân châu Lão Tử'. Theo định giá năm 2006, viên ngọc này có giá trị 61.850.000 USD.
Ngọc ốc
Ngọc ốc có giá trị cao và đôi khi còn đắt hơn ngọc trai nếu cùng kích thước. Ngọc ốc đẹp nhất phải kể đến ngọc ốc Giác (một loại ốc lớn nặng từ 4–6 kg, vỏ mỏng màu vàng). Ngọc ốc thường có vân đẹp, màu vàng, hình tròn và là ngọc tự nhiên. Ngọc ốc Giác được các nhà sưu tập ưa chuộng và có giá vài trăm triệu đồng cho viên ngọc có đường kính khoảng 18 mm. Ngọc ốc rất hiếm và khó tìm trên thị trường. Ngọc ốc Giác thường xuất hiện ở vùng biển Kiên Giang.
Thư viện ảnh
- Ammolite — một loại đá quý hữu cơ khác được hình thành chủ yếu từ vỏ hóa thạch của các loài nhuyễn thể aragonite.
- Ngọc trai Baroque
- Broome
- Ngọc trai conch, ngọc không có xà cừ
- Ngọc trai melo melo, ngọc không có xà cừ
- Xà cừ
- Ngọc trai sò điệp, ngọc không có xà cừ
- Con trai
Liên kết ngoài
- Lịch sử ngọc trai. PBS Pearl History Special.
- Thông tin về ngọc trai từ Khoa Địa chất UT
- Danh sách các viên ngọc trai nổi tiếng thế giới Lưu trữ ngày 07-02-2007 tại Wayback Machine
- Cuộc sống với ngọc trai và nghề ngọc trai Lưu trữ ngày 05-11-2012 tại Wayback Machine bởi Edwin Streeter
- Sách về ngọc trai của George Frederick Kunz Lưu trữ ngày 12-05-2008 tại Wayback Machine. Sách có sẵn dưới dạng html và pdf từ Tổ chức Kim cương và Đá quý
Giải phẫu học thân mềm hai mảnh vỏ |
---|
Trang sức |
---|