Ngọc lục bảo | |
---|---|
Ngọc lục bảo thô | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật |
Công thức hóa học | Beryli nhôm silicat với crom, Be3Al2(SiO3)6::Cr |
Hệ tinh thể | Lục giác |
Nhận dạng | |
Màu | Thủy tinh |
Dạng thường tinh thể | Các tinh thể lục giác |
Cát khai | Cát khai đáy kém |
Vết vỡ | Vỏ sò (concoit) |
Độ cứng Mohs | 7,5-8,0 |
Ánh | Thủy tinh |
Màu vết vạch | trắng |
Tỷ trọng riêng | 2,7-2,78 |
Chiết suất | ~1,576-1,582 |
Đa sắc | Lục-lam, lục-vàng |
Nhiệt độ nóng chảy | 1.278 °C |
Châu báu màu xanh hay bích ngọc là một loại khoáng vật berylin (Be3Al2(SiO3)6) của beryli có màu xanh với các sắc độ của màu lục và màu lục hơi ngả sang màu lam (bluish green). Màu xanh của châu báu màu xanh xuất phát từ hàm lượng nhỏ crôm và đôi khi cả vanadi trong khoáng vật. Berylin có độ cứng 7,5 - 8 trên 10 của thang độ cứng Mohs. Châu báu màu xanh có thể được sản xuất nhân tạo.
Lịch sử
Châu báu màu xanh đã được dùng làm như một đơn vị tiền tệ để trao đổi ở Babylon từ 2000 năm trước Công nguyên. Ở Ai Cập cổ đại, người ta đã khai thác các quặng mỏ châu báu màu xanh ở gần Biển Đỏ từ hơn 2000 năm trước Công nguyên để làm đồ trang sức. Các mỏ ở Djebel Sabara, được tìm thấy lại vào năm 1818, được đặt tên nhầm lẫn là mỏ Cleopatra. Các mỏ này hiện đã cạn kiệt, chỉ cung cấp được các loại đá quý có chất lượng không cao.
Các tác giả cổ đại như Theophrastos, Herodotos hay Plinius Già đã từng nhắc đến châu báu màu xanh và miêu tả nhiều tượng, cột hay đài kỷ niệm dùng đến loại đá này. Ngày nay người ta biết rằng đó không phải là châu báu màu xanh thật. Thời đó có thể bị nhầm lẫn với các loại đá khác cũng có màu xanh và thời đó cũng đã có thủy tinh màu xanh giống như vậy. Mặt khác cũng có thể các tượng này được khắc từ các viên châu báu thô có chất lượng không cao.
Trong thời của Đế chế La Mã, Hoàng đế Nero đã sử dụng một chiếc kính đơn làm từ ngọc lục bảo khi xem các trận đấu trên võ đài. Vào thời kỳ này ở châu Âu, người ta chỉ biết đến một mỏ ngọc lục bảo duy nhất tại Habachtal (Áo).
Vào thế kỷ 16, người Tây Ban Nha khám phá ra các mỏ mới ở Nam Mỹ, chủ yếu là ở Colombia. Mỏ Chivor đã được khai thác từ năm 1545 và mỏ Muzo từ năm 1560.
Một trong những viên ngọc lục bảo lớn nhất thế giới là ngọc lục bảo Mogul Emerald, được tìm thấy vào năm 1695 tại Ấn Độ. Viên ngọc này nặng 217,80 cara và có chiều cao khoảng 10 cm. Mặt của viên ngọc này có khắc các bài kinh cầu nguyện, mặt còn lại có họa tiết hoa văn trang trí. Viên ngọc này đã trở thành truyền thuyết khi một người ẩn danh mua với giá 2,2 triệu USD vào ngày 28 tháng 9 năm 2001 tại Luân Đôn trong một phiên đấu giá của Christie.
Đặc điểm
- Ngọc lục bảo có thành phần hóa học và cấu trúc tinh thể giống như beryl, tỷ trọng từ 2,67 đến 2,78, với nguyên tố gây màu chủ yếu là Cr, đôi khi là V.
- Màu sắc: Ngọc lục bảo thường có màu từ lục đậm đến lục. Màu lục của ngọc lục bảo không gì sánh bằng nên thường được gọi riêng là 'lục ngọc lục bảo'. Nguyên nhân tạo nên màu lục là do sự hiện diện của Cr2O3, và đôi khi là vanadi (V). Màu sắc của ngọc lục bảo rất ổn định dưới ánh sáng và nhiệt, chỉ biến đổi ở nhiệt độ từ 700 đến 800 độ C. Màu sắc được ưa chuộng nhất là màu lục thẫm, trong khi màu lục nhạt, vàng lục, và lục tối ít được ưa chuộng hơn. Màu sắc trong viên đá thường không phân bố đồng đều, mà thường xuất hiện dưới dạng sọc hoặc đám màu. Sắt cũng thường được tìm thấy trong ngọc lục bảo và có thể làm giảm độ sáng của đá. Chỉ số chiết suất từ 1,576 đến 1,582; lưỡng chiết 0,006; phổ hấp thụ: 6835, 6896, 6620, 6460, 6370, 6300, 5800, 4774, 4725;
- Ngọc lục bảo phát quang màu đỏ, và dưới đèn Chelsea cũng phát quang màu đỏ. Hiện tượng phát quang này có thể bị ảnh hưởng khi có sự hiện diện của Fe và có thể không phát quang, đặc tính quang học: một trục âm.
- Thông thường, ngọc lục bảo có chứa các bao thể tự nhiên như: bao thể lỏng chứa khí bọt và các bao thể cứng khác. Những bao thể này là bằng chứng cho việc nguồn gốc tự nhiên của viên đá so với loại hợp thành và mô phỏng. Các bao thể rắn trong ngọc lục bảo bao gồm: pyrit, sylvin, parisit (một khoáng vật hiếm), và các bao thể tinh thể không có hướng tương phản với trục tinh thể. Đặc biệt, trong ngọc lục bảo thường có màng sương, vì thế người ta thường gọi loại ngọc này là 'ngọc lục bảo vườn cảnh'.
Các phương pháp xử lý và tổng hợp
- Ngọc lục bảo được tổng hợp trong ngành công nghiệp chủ yếu bằng phương pháp nhiệt dịch và ít hơn là phương pháp sử dụng chất trợ dung 'flux'. Emerald thường chứa nhiều bao thể và các khe nứt thường được lấp đầy bằng chất dầu hoặc thủy tinh màu để tăng độ tinh khiết. Quá trình này được gọi là lấp đầy hoặc tẩm dầu khe nứt. Có thể cần tái lấp đầy thường xuyên để thay thế chất lấp đầy cũ đã bị biến đổi. Phương pháp xử lý này được cho là không bền và có thể dễ bị phát hiện.
Nguồn gốc và phân bố
Colombia là quốc gia sản xuất ngọc lục bảo quan trọng nhất trên thế giới, chiếm 60% tổng sản lượng vào năm 1995 với 6 triệu cara, bao gồm các mỏ Chivor, Muzo, Peña Blanca và Coscuez. Không chỉ dẫn đầu về số lượng, ngọc lục bảo từ Colombia cũng dẫn đầu về chất lượng. Ngọc lục bảo từ Colombia nói chung tinh khiết hơn so với ngọc từ các nơi khác.
Các nước sản xuất ngọc lục bảo quan trọng nhất:
Nước | Mỏ | % trên tổng lượng sản xuất |
Colombia | Chivor, Muzo, Peña Blanca et de Coscuez | 60% |
Zambia | 15% | |
Brasil | Nova Era | 12% |
Nga | Ural | 4% |
Zimbabwe | Sandawana | 3% |
Madagascar | 3% |
Nguồn: Thống kê từ Bộ Hầm mỏ và Năng lượng Colombia năm 2000.
Hiện tại Việt Nam chưa phát hiện được ngọc lục bảo, tuy nhiên, các dấu hiệu địa chất ở một số khu vực cho thấy có thể sẽ phát hiện được ngọc lục bảo trong tương lai.
Hình ảnh
- Ngọc xanh biển
- Hồng ngọc
- Kim cương
- Ngọc
- Ngọc lam
- Xa-phia
Ghi chú và các liên kết bên ngoài
Trang sức | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Các dạng |
| ||||||||||||
Chế tác |
| ||||||||||||
Vật liệu |
| ||||||||||||
Thuật ngữ |
| ||||||||||||
|