Chén Petri là dụng cụ dạng chén trụ được làm từ thủy tinh hoặc nhựa, dùng trong nghiên cứu sinh học để nuôi cấy tế bào hoặc các mẫu vật nhỏ. Nó có nắp đậy để bảo vệ mẫu khỏi tác động từ môi trường bên ngoài. Được đặt tên theo nhà vi khuẩn học người Đức Julius Richard Petri, người đã phát minh ra dụng cụ này khi còn là trợ lý của Robert Koch. Chén Petri bằng thủy tinh có thể được tái sử dụng qua quá trình khử trùng (như hấp cách thủy hoặc sấy khô ở nhiệt độ từ 120°C-160°C trong 30 phút đến 1 giờ). Để tránh lây nhiễm chéo giữa các lần thí nghiệm, hiện nay người ta thường dùng chén Petri bằng nhựa một lần. Chén Petri nhựa có giá thành rẻ, bền hơn và dễ bảo quản hơn so với chén thủy tinh, chỉ cần để trong bình hoặc tủ hút chân không và tránh ánh sáng trực tiếp.
Chén Petri hiện đại thường có các rãnh trên nắp và đáy để ngăn việc trượt khi xếp chồng lên nhau. Nó thường được dùng để nuôi cấy vi khuẩn hoặc tế bào.
Vi sinh học
Chén Petri thường được dùng để chuẩn bị môi trường thạch nuôi cấy vi sinh vật. Chất lỏng hơi ấm chứa thạch cùng với các thành phần như chất dinh dưỡng, máu, muối, carbohydrat, thuốc nhuộm, chỉ thị, amino acid và kháng sinh được đổ vào chén. Sau khi thạch nguội và đông lại, chén đã sẵn sàng để tiếp nhận mẫu vi khuẩn qua các kỹ thuật cấy khác nhau.