
Chi Cáng lò | |
---|---|
Cáng lò rủ (''Betula pendula'') | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Fagales |
Họ (familia) | Betulaceae |
Chi (genus) | Betula L., 1753 |
Các loài | |
Nhiều; xem văn bản |
Chi Betula còn được biết đến với tên chi Bulô hoặc chi Bạch dương, với tên khoa học là Betula, là nhóm cây gỗ thuộc họ Cáng lò (Betulaceae), có liên quan gần với họ Cử (Fagaceae). Theo Sách tra cứu tên cây cỏ Việt Nam của TS Võ Văn Chi, chi Bạch dương thực chất thuộc về chi Populus, bao gồm hai loài ở Việt Nam: bạch dương Canada (Populus canadensis) và bạch dương (Populus thevestina subsp. bethmontiana). Chúng là cây gỗ từ nhỏ đến trung bình hoặc cây bụi, sống chủ yếu ở vùng khí hậu ôn đới phía bắc. Lá đơn có thể có răng cưa hoặc thùy. Quả là loại quả cánh nhỏ, mặc dù một số loài có thể không thấy rõ cánh. Chúng khác với các loài tống quán sủ (chi Alnus cùng họ) vì hoa đuôi sóc cái không phải dạng gỗ và rụng từng mảnh khi chín để giải phóng hạt, khác với các hoa đuôi sóc cái dạng gỗ hình nón của tống quán sủ.
Tại Việt Nam, chỉ có một loài cây thuộc chi Betula, đó là Betula alnoides, trong khi các loài 'bạch dương' (gọi nhầm) không có ở đây. Danh pháp khoa học Betula xuất phát từ tiếng Latin. Các loài 'bạch dương' thường bị các loài côn trùng cánh vẩy (Lepidoptera) gây hại, chi tiết xem trong Danh sách côn trùng cánh vẩy phá hại bạch dương.
Cây 'bạch dương' được xem là quốc thụ của Nga và được tôn sùng như một nữ thần trong tuần lễ xanh vào đầu tháng sáu. Nga còn được gọi là xứ sở của 'bạch dương' vì lý do này. Cây cũng là quốc thụ của Phần Lan.
Mô tả
Vỏ thân của các loài thuộc chi Cáng lò có đặc điểm nhận dạng nổi bật với các vết đen hình hạt đậu, kéo dài theo chiều ngang, và thường có thể bóc tách thành các lớp mỏng như giấy, đặc biệt là ở bạch dương giấy. Thực tế, vỏ này rất ít bị hư hỏng nhờ vào lớp dầu nhựa có trong nó. Màu sắc nổi bật của vỏ tạo nên các tên gọi phổ biến như đỏ, trắng, đen và vàng cho các loài khác nhau.
Chồi hình thành vào đầu mùa hè và phát triển hoàn toàn vào giữa hè, tất cả đều nằm ở bên cạnh, không có chồi đỉnh; các cành dài ra nhờ vào chồi bên phía trên. Gỗ của tất cả các loài đều có kết cấu mịn như lụa và có thể đánh bóng; giá trị nhiên liệu của nó ở mức trung bình.
Lá của các loài khác nhau chỉ khác nhau một chút. Tất cả đều mọc so le, có khía răng cưa kép, gân lá hình lông chim, có cuống lá và lá kèm. Chúng dường như mọc thành cặp, nhưng thực ra là sinh ra từ các cành con có hai lá tương tự như cựa.
Hoa và quả
Hoa là đơn tính cùng gốc, nở đồng thời hoặc trước khi ra lá mới và mọc thành cụm 3 hoa trong nách của các vảy bắc của hoa đuôi sóc mọc rủ hoặc mọc thẳng. Các hoa đuôi sóc đực mọc rủ, có thể mọc thành cụm hoặc đơn lẻ trong nách của lá cuối cùng của cành mọc trong năm đó hoặc gần cuối của các cành nhỏ ở bên và ngắn trong năm đó. Chúng hình thành vào đầu mùa thu và tồn tại suốt mùa đông. Các vảy bắc của hoa đuôi sóc đực khi chín có dạng hình trứng rộng, thuôn tròn, màu vàng hoặc cam nhạt ở phía dưới giữa, màu nâu hạt dẻ sẫm ở đỉnh. Mỗi vảy bắc chứa 2 lá bắc con và 3 hoa vô sinh, mỗi hoa gồm một đài hoa không cuống, giống như màng, thường có 2 thùy. Mỗi đài hoa chứa 4 chỉ nhị ngắn với bao phấn dạng một ngăn, hoặc chính xác hơn là 2 chỉ nhị, mỗi chỉ nhị chia thành hai nhánh, mỗi nhánh mang một nửa bao phấn. Các ngăn bao phấn mở theo chiều dọc. Các hoa đuôi sóc cái mọc thẳng hoặc mọc rủ, đơn lẻ; ở ngọn của các cành nhỏ tương tự như cựa ở bên và hai lá của năm. Các vảy bắc cái có hình trứng thuôn dài, 3 thùy, màu vàng lục nhạt, thường có màu đỏ, chuyển thành nâu khi chín. Mỗi vảy bắc mang 2 hoặc 3 hoa sinh sản, mỗi hoa gồm một bầu nhụy trần. Bầu nhụy bị ép, có 2 ngăn, với 2 vòi nhụy mảnh; noãn đơn độc.
Các hoa đuôi sóc cái khi đã phát triển hoàn chỉnh gọi là bông cầu và chứa các quả hạch nhỏ có cánh, được bao bọc trong các vảy bắc màu nâu dạng gỗ với hình dạng cong. Các quả hạch này có màu nâu nhạt và được bao phủ bởi các núm nhụy ở phần đỉnh, không rụng. Hạt nằm đầy trong khoang của quả hạch. Các lá mầm thì dẹt và có nhiều cùi. Tất cả các loài đều dễ dàng trồng từ hạt.
Quả 'bạch dương' từng là nguồn thực phẩm chính cho người Inca.
Các loài
- Các loài 'bạch dương' ở Bắc Mỹ bao gồm:
- Betula alleghaniensis - Bạch dương vàng (B. lutea)
- Betula cordifolia - Bạch dương núi
- Betula glandulosa - Bạch dương lùn Bắc Mỹ
- Betula lenta - Bạch dương ngọt, bạch dương đen, bạch dương anh đào
- Betula lenta phân loài uber - Bạch dương lá tròn Virginia (đặc hữu, Cressy Creek, quận Smyth, Virginia)
- Betula michauxii - Bạch dương lùn Newfoundland
- Betula nana - Bạch dương lùn hay bạch dương bãi lầy (cũng xuất hiện ở miền bắc châu Âu và châu Á)
- Betula neoalaskana - Bạch dương Alaska hay bạch dương Yukon
- Betula nigra - Bạch dương đen hay bạch dương sông
- Betula occidentalis - Bạch dương đỏ hay bạch dương nước (B. fontinalis)
- Betula papyrifera - Bạch dương giấy, bạch dương canoe, bạch dương trắng Bắc Mỹ
- Betula populifolia - Bạch dương xám
- Betula pumila - Bạch dương đầm lầy
- Các loài 'bạch dương' ở châu Âu và châu Á bao gồm
- Betula albosinensis - Bạch dương đỏ Trung Hoa
- Betula verukoza L. - Bạch dương Ukraine - gỗ Birch https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-642-61535-1_16
- Betula albosinensis phân loài septentrionalis - Bạch dương đỏ Hoa Bắc
- Betula alnoides - Cáng lò. Đây là loài duy nhất có mặt ở Việt Nam.
- Betula austrosinensis - Bạch dương Hoa Nam
- Betula chinensis - Bạch dương lùn Trung Hoa
- Betula ermanii - Bạch dương Erman
- Betula grossa - Bạch dương anh đào Nhật
- Betula jacquemontii (Betula utilis phân loài jacquemontii) - Bạch dương Himalaya với vỏ trắng
- Betula mandschurica - Bạch dương Mãn Châu
- Betula mandschurica phân loài japonica - Bạch dương Nhật
- Betula maximowiczii - Bạch dương Maximowic
- Betula medwediewii - Bạch dương Kavkaz
- Betula nana - Bạch dương lùn (cũng có ở Bắc Mỹ)
- Betula pendula - Bạch dương bạc
- Betula platyphylla (Betula pendula phân loài platyphylla) - Bạch dương bạc Siberi
- Betula pubescens - Bạch dương lông, bạch dương trắng hay bạch dương trắng châu Âu (cũng xuất hiện ở Bắc Á)
- Betula pubescens phân loài tortuosa - Bạch dương trắng Bắc cực (ở đại lục Á-Âu gần Bắc cực, Greenland)
- Betula szechuanica (Betula pendula phân loài szechuanica) - Bạch dương Tứ Xuyên
- Betula utilis - Bạch dương Himalaya
- Lưu ý: Một số tài liệu ở Mỹ thường nhầm lẫn giữa B. pendula và B. pubescens, mặc dù chúng là những loài khác nhau với số nhiễm sắc thể khác biệt.
Sử dụng

Gỗ 'bạch dương' có kết cấu mịn màng và màu sáng, thường ánh lên như sa tanh. Đôi khi có các vân gợn sóng, điều này làm tăng giá trị của gỗ trong chế tạo đồ nội thất và dán gỗ. 'Bạch dương' Masur (hay 'bạch dương' Karelia, Betula verrucosa phân loài carelica) có vẻ đẹp đặc biệt nhờ vào các vân gợn sóng kết hợp với các sọc và đường vân tối màu. Gỗ 'bạch dương' rất phù hợp để sản xuất gỗ dán, và là một trong những loại gỗ dán ít co giãn nhất, mặc dù không thích hợp để sử dụng ngoài trời.
Nhờ vào chất lượng tốt của các sợi ngắn trong bột gỗ bạch dương, loại gỗ cứng này có thể được dùng để sản xuất giấy in. Ở Ấn Độ, lớp vỏ cây mỏng được lột ra vào mùa đông đã từng được sử dụng làm giấy viết. Giấy này có độ bền cao và được gọi là bhoorj patra. Trong tiếng Phạn, bhoorj là tên của bạch dương và patra có nghĩa là giấy.
Các chiết xuất từ 'bạch dương' được dùng để tăng cường hương vị hoặc làm dầu bôi trên da thuộc, cũng như trong các sản phẩm hóa mỹ phẩm như xà phòng và dầu gội đầu. Trước đây, dầu thương mại wintergreen (methyl salicylat) được chiết xuất từ bạch dương ngọt (Betula lenta). Hắc ín bạch dương hay dầu Nga, chiết xuất từ vỏ 'bạch dương', đã được sử dụng như dầu bôi trơn, keo dán và trong các ứng dụng y tế.
Bạch dương bạc (Betula pendula) là quốc thụ của Phần Lan. Tại đây, người ta thường dùng các cành nhỏ có lá thơm của 'bạch dương' bạc để đập nhẹ vào cơ thể khi tắm hơi. Các cành nhỏ này được gọi là vihta hoặc vasta trong ngôn ngữ địa phương và có tác dụng thư giãn cơ bắp.
Lá 'bạch dương' có thể được dùng để pha trà lợi tiểu hoặc sản xuất thuốc nhuộm và mỹ phẩm.
Trong quá khứ, các cành nhỏ của 'bạch dương' được buộc thành bó để làm roi, dùng trong các hình thức trừng phạt thể xác.
Nhiều bộ lạc bản địa ở Bắc Mỹ coi trọng vỏ thân cây 'bạch dương' nhờ vào trọng lượng nhẹ, tính dẻo dai và dễ tách ra từ cây gỗ đã chết. Vì vậy, vỏ cây thường được dùng để chế tạo xuồng canoe chống thấm nước, lều tipi, và nhiều vật dụng khác.
'Bạch dương' cũng được sử dụng làm củi vì khả năng sinh nhiệt cao trên mỗi đơn vị khối lượng hoặc thể tích. Vỏ cây cháy rất tốt và có thể nhóm lửa ngay cả khi ẩm ướt nhờ vào lượng dầu tự nhiên. Lớp vỏ này có thể được tách thành các tấm mỏng và dễ bắt lửa ngay cả với tia lửa nhỏ.
'Bạch dương' còn có ý nghĩa tinh thần quan trọng trong nhiều tôn giáo, từ thời xưa đến nay.
Gỗ 'bạch dương' được sử dụng để chế tạo các bộ phận khuếch đại âm cho đàn ghi ta và vỏ loa. Gỗ này không chỉ có chất lượng âm thanh tốt mà còn rất bền về mặt cơ học.
Gỗ 'bạch dương' cũng được dùng để làm trống, tạo ra âm thanh với cả tần số cao và thấp, trong đó các tần số thấp rất rền. Loại gỗ này rất lý tưởng cho các bản ghi âm trong phòng thu.
Thực phẩm
Ở Belarus, Nga, các quốc gia vùng Baltic, Phần Lan và miền bắc Trung Quốc, nhựa 'bạch dương' được uống như một loại đồ uống ngon miệng và được cho là có giá trị dinh dưỡng. Nhựa này có màu xanh lục nhạt, hơi thơm và được đóng chai để tiêu thụ thương mại. Nó cũng có thể được dùng để chế biến kvass, một loại đồ uống có cồn nhẹ. Một số loại nhựa 'bạch dương' đặc biệt còn được chế biến thành siro, dấm, bia bạch dương (tương tự như bia rễ cây) và các sản phẩm thực phẩm khác. Siro 'bạch dương' khó sản xuất hơn siro phong, làm cho nó đắt đỏ hơn và ít ngọt hơn, với thời gian thu hoạch cũng muộn hơn khoảng một tháng. Siro này chủ yếu được sản xuất ở Alaska (từ bạch dương Alaska) và Nga (từ một số loài), còn ở những nơi khác thì ít phổ biến.
Xylitol, một loại chất làm ngọt nhân tạo có thể được chiết xuất từ 'bạch dương', đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc ngăn ngừa sâu răng.
Theo chương trình tài liệu Unwrapped của Food Network, 'bạch dương' là loại gỗ được ưa chuộng để sản xuất tăm xỉa răng.
Y học
Tuy nhiên, tại các vùng vĩ độ phía bắc, 'bạch dương' là một trong những nguồn gây dị ứng phấn hoa phổ biến nhất, với khoảng 15-20% trường hợp sốt cỏ khô xảy ra ở những người nhạy cảm với phấn hoa bạch dương.
Nấm chaga, một loại adaptogen phát triển trên cây 'bạch dương' trắng, hấp thụ các thành phần của cây và được sử dụng như một phương thuốc tiềm năng chống ung thư.
Vỏ cây 'bạch dương' chứa nhiều betulin và axít betulinic, các hợp chất thực vật có triển vọng dược phẩm, cùng với các hóa chất khác có tiềm năng trong ngành công nghiệp như chất bôi trơn.
Liên kết ngoài
- Hệ thực vật Bắc Mỹ: Betula
- Hệ thực vật Trung Hoa: Betula
- The Monday Garden: Bạch dương Lưu trữ 2005-07-27 tại Wayback Machine