
Chi Cá sấu mõm ngắn | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: Oligocene-Recent, 37–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Cá sấu mõm ngắn Mỹ (trên cùng) và Cá sấu Dương Tử | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Reptilia |
Bộ (ordo) | Crocodilia |
Họ (familia) | Alligatoridae |
Chi (genus) | Alligator Daudin, 1809 |
Loài điển hình | |
Alligator mississipiensis Daudin, 1802 (originally Crocodylus) | |
Species | |
|
Chi Cá sấu mõm ngắn (tên khoa học Alligator) là một nhóm cá sấu thuộc họ Cá sấu mõm ngắn (Alligatoridae). Hiện nay, chi này gồm hai loài còn sống là cá sấu mõm ngắn Mỹ (A. mississippiensis) và cá sấu Dương Tử (A. sinensis). Chi cá sấu này đã tồn tại từ cách đây khoảng 37 triệu năm. Trong số chúng, cá sấu mõm ngắn Mỹ được xem là loài cá sấu nguy hiểm và có khả năng tấn công người.
Tên gọi
Trong tiếng Tây Ban Nha, từ Alligator được dịch là el lagarto, có nghĩa là thằn lằn, sau đó được chuyển thành tiếng Anh là allagarta và alagarto. Mặc dù Alligator thường được dịch là cá sấu Mỹ, điều này không chính xác vì dễ nhầm lẫn với cá sấu Mỹ có tên khoa học là Crocodylus acutus. Ở miền bắc Úc, đôi khi cá sấu nước mặn cũng được gọi là alligator (cá sấu alligator), mặc dù thực chất không phải như vậy, và cá sấu nước ngọt nhỏ hơn thường được gọi là crocodile (cá sấu).
Nguyên nhân có thể là do cá sấu nước ngọt với mõm dài trông giống như cá sấu sông Nin thu nhỏ, trong khi cá sấu nước mặn có thể trông giống cá sấu alligator Mỹ, nhưng ít nguy hiểm hơn nhiều. Do đó, khi người Úc nói về Alligator Rivers ở vùng lãnh thổ phía bắc, thực tế là họ đang nói về cá sấu nước mặn. Đây là lý do mà đôi khi người Mỹ nghĩ rằng cá sấu alligator là loài động vật nguy hiểm thay vì cá sấu.
Thông tin mô tả
Chi cá sấu này bao gồm các loài đã xuất hiện trên các bãi bồi vào thời kỳ Creta ở châu Âu và tồn tại đến thời Pliocene. Hiện nay, chi cá sấu mõm ngắn chỉ còn hai đại diện chính: A. mississippiensis ở Đông Nam Hoa Kỳ, có thể dài đến 4,24 m và nặng 454,5 kg, và loài nhỏ hơn Alligator sinensis sống ở sông Dương Tử, Trung Quốc, dài trung bình 1,5 m.
Trong hai loài hiện có của chi alligator, cá sấu mõm ngắn Mỹ lớn hơn cá sấu Dương Tử còn lại. Chúng có chiều dài từ 5 đến 7 ft (1,5 đến 2,1 m), với con đực trưởng thành dài trung bình 11,2 ft (3,4 m) và con cái trưởng thành dài từ 2,5 đến 3,0 m. Con lớn có thể nặng từ 168 đến 800 lb (76 đến 363 kg), với những con đực già có thể dài hơn 14 ft (4,3 m) và nặng tới 1.000 lb (450 kg). Con lớn nhất được ghi nhận từng được bắt ở Louisiana vào đầu thế kỷ 20, dài 19 ft 2 in (5,84 m) và nặng 2.200 lb (1.000 kg). Con lớn thứ hai dài 17 ft 5 in, từ Florida. Đuôi của chúng, chiếm một nửa chiều dài cơ thể, chủ yếu được dùng để bơi.
So sánh với cá sấu thực thụ
Cá sấu mõm ngắn có những điểm khác biệt cơ bản so với cá sấu thực thụ. Chúng có đầu rộng và ngắn hơn, mõm cũng ngắn hơn và mập hơn. Đặc biệt, răng của cá sấu mõm ngắn nằm gọn trong miệng khi ngậm, không lộ ra ngoài như cá sấu thực thụ. Cá sấu mõm ngắn thích nghi tốt với môi trường nước ngọt, trong khi cá sấu thực thụ có thể sống ở môi trường nước lợ. Nói chung, cá sấu thực thụ có xu hướng nguy hiểm hơn đối với con người so với cá sấu mõm ngắn. Một điểm thú vị mới phát hiện là cả cá sấu caiman và cá sấu mõm ngắn Mỹ đều có thói quen ăn lá và trái cây bên cạnh chế độ ăn cá và thịt của chúng.
Ghi chú
- Thông tin về Alligator có thể tìm thấy trên Wikispecies