Chi Keo | |
---|---|
Lá và thân, gai cây keo Acacia greggii | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Fabales |
Họ (familia) | Fabaceae |
Phân họ (subfamilia) | Mimosoideae |
Tông (tribus) | Acacieae |
Chi (genus) | Acacia Mill. |
Các loài | |
Khoảng 1.300; xem Danh sách các loài cây keo |
Chi Keo (danh pháp khoa học: Acacia) là một nhóm các loài cây bụi và cây gỗ có nguồn gốc từ đại lục cổ Gondwana, thuộc phân họ Trinh nữ (Mimosoideae) trong họ Đậu (Fabaceae), lần đầu được Linnaeus mô tả năm 1773 tại châu Phi. Hiện tại, có khoảng 1.300 loài cây keo trên toàn thế giới, trong đó khoảng 950 loài ở Australia và phần còn lại phân bố ở các khu vực khô hạn của vùng nhiệt đới và ôn đới ấm trên cả hai bán cầu, bao gồm châu Phi, miền nam châu Á và châu Mỹ. Tuy nhiên, chi Acacia không phải là đơn ngành. Phát hiện này đã dẫn đến việc chia tách Acacia thành 5 chi mới. Xem thêm danh sách các loài cây keo.
Loài keo sinh trưởng ở vị trí cực bắc của chi này là Acacia greggii (keo vuốt mèo), có thể đạt đến 37°10' vĩ bắc ở miền nam Utah, Hoa Kỳ; loài sinh trưởng ở vị trí cực nam bao gồm Acacia dealbata (keo bạc), Acacia longifolia (keo bờ biển hay keo vàng Sydney), Acacia mearnsii (keo đen) và Acacia melanoxylon (keo gỗ đen), có thể đạt đến 43°30' vĩ nam ở Tasmania, Australia, trong khi Acacia caven có thể đạt đến vĩ độ tương tự ở khu vực đông bắc tỉnh Chubut, Argentina. Trong tiếng Anh, các loài ở Australia được gọi chung là wattle (cây keo Úc), còn các loài ở châu Phi và châu Mỹ được gọi chung là acacia (cây keo).
Đặc điểm
Lá của các loài keo thường có hình dạng lông chim phức tạp. Tuy nhiên, ở một số loài đặc biệt ở Australia và các đảo trên Thái Bình Dương, các lá chét bị loại bỏ và các cuống lá trở nên phẳng và bẹt, hướng lên trên như lá; chúng được gọi là cuống dạng lá. Các cuống dạng lá đứng thẳng giúp bảo vệ cây khỏi sự nóng bức do ánh sáng mặt trời mạnh mẽ, vì chúng chắn ít ánh sáng hơn so với lá cây nằm ngang. Một số loài như Acacia glaucoptera không có cả lá lẫn cuống dạng lá, mà có cành dạng lá, là phần của thân cây đã biến đổi thành dạng lá để thực hiện chức năng quang hợp.
Các hoa của loài thường có 5 cánh hoa rất nhỏ, gần như bị che khuất trong các nhị hoa dài và được sắp xếp trong các cụm hoa dày đặc, có hình cầu hoặc hình trụ; màu sắc của chúng thường là vàng hoặc kem ở một số loài, một số khác có màu hơi trắng, tía (như Acacia purpureapetala) hoặc đỏ (như Acacia leprosa) trong các loài trồng gần đây).
Các loài keo thường có gai, đặc biệt là các loài sinh trưởng ở những khu vực khô cằn. Chúng thường có các cành ngắn, cứng và sắc, hoặc đôi khi là lá kèm dạng gai. Ví dụ như Acacia armata, cây gai Kangaroo ở Australia, Acacia giraffae, cây gai lạc đà ở châu Phi. Ở Trung Mỹ, Acacia sphaerocephala (cây gai bò) và Acacia spadicigera, với các lá kèm tương tự như gai lớn thường rỗng, là nơi làm tổ cho các loài kiến; chúng ăn các chất tiết ra từ cuống lá và các thức ăn kỳ lạ ở chóp lá chét, đồng thời bảo vệ cây khỏi côn trùng ăn lá.
Tại Australia, các loài keo thường bị phá hoại bởi ấu trùng của một số loài nhậy thuộc họ Hepialidae, như các loài thuộc chi Aenetus như A. ligniveren. Các ấu trùng này đào hang theo chiều ngang vòng quanh thân cây, rồi tiếp tục đào xuống dưới theo chiều đứng. Các ấu trùng khác thuộc bộ Lepidoptera cũng được ghi nhận phá hoại Acacia, như bướm đuôi nâu, Endoclita malabaricus và nhậy củ cải. Các ấu trùng ăn lá thuộc họ Bucculatricidae cũng gây hại cho lá keo, như
Sử dụng
Trong ngành công nghiệp và y học
Một số loại keo khác nhau tạo ra chất gôm. Gôm Ả Rập thực thụ là sản phẩm từ loài keo Senegal (Acacia senegal), loài cây phổ biến ở các vùng khô hạn nhiệt đới Tây Phi, từ Sénégal đến miền bắc Nigeria.
Acacia arabica là cây 'keo Ả Rập' ở Ấn Độ, nhưng chất gôm của nó kém chất lượng hơn so với gôm Ả Rập thực thụ. Vỏ cây Acacia arabica được dùng ở Sindh để thuộc da. Trong y học Ayurveda, vỏ cây này được xem là phương thuốc hữu ích trong việc điều trị xuất tinh sớm.
Vỏ của các loại keo khác nhau chứa nhiều tanin và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng; những loài có giá trị cao nhất bao gồm Acacia pycnantha (keo vàng), Acacia decurrens (keo vỏ dà), Acacia dealbata (keo bạc) và Acacia mearnsii (keo đen). Loài keo đen được trồng tại Nam Phi. Quả của Acacia nilotica (gọi là 'neb-neb' trong ngôn ngữ bản địa), một loài khác từ châu Phi, cũng rất giàu tanin và được thợ thuộc da sử dụng.
Một số loài cung cấp gỗ có giá trị cao; ví dụ, Acacia melanoxylon (keo gỗ đen) ở Australia, là cây gỗ lớn dùng làm đồ gỗ nội thất và có độ bóng cao; hoặc Acacia homalophylla (gỗ Myall, cũng ở Australia) tạo ra gỗ có mùi thơm, dùng làm cảnh. Acacia formosa cung cấp gỗ quý của Cuba gọi là 'sabicu'. Acacia seyal được coi là cây keo (shitta) xuất hiện trong Kinh Thánh và cung cấp gỗ shitta, dùng làm hộp đựng pháp điển của người Do Thái. Là biểu tượng tinh thần, nó còn là một trong những biểu tượng quyền lực nhất trong hội Tam điểm, thể hiện linh hồn Thượng đế và sự tinh khiết của tâm hồn. Acacia heterophylla từ đảo Réunion và Acacia koa (keo Hawaii) từ quần đảo Hawaii là các loài cây lấy gỗ quý. Tại Việt Nam, các loài keo tai tượng (Acacia mangium) và keo lá tràm (Acacia auriculiformis) được trồng để sản xuất giấy và cải tạo rừng.
Acacia farnesiana được dùng trong ngành công nghiệp nước hoa nhờ mùi thơm mạnh mẽ của nó.
Chất làm se trong y học, chất cao su (catechu), thu được từ một số loài, đặc biệt là Acacia catechu, bằng cách luộc gỗ và bay hơi dung dịch để thu được các chất chiết xuất.
Cây cảnh
Một số loài được trồng làm cây cảnh; phổ biến nhất có lẽ là Acacia dealbata (keo bạc) với lá có màu từ xanh xám đến bạc và hoa màu vàng tươi; nó đôi khi bị nhầm lẫn với cây trinh nữ thực thụ thuộc chi Mimosa ở một số khu vực trồng, chẳng hạn như Đà Lạt, Việt Nam.
Ẩm thực
Hạt của một số loài keo được dùng trong ẩm thực và sản xuất nhiều sản phẩm khác. Ví dụ, hạt của Acacia niopo được nướng và sử dụng như thuốc hít ở Nam Mỹ.
Tại Lào và Thái Lan, rễ của Acacia pennata (còn gọi là cha-om) được dùng trong các món như súp, cà ri, trứng ốp lết hoặc các món xào.
Dược phẩm
Nhiều loài trong chi Acacia chứa các ancaloit với tác động thần kinh như gây ảo giác, trong đó DMT và NMT nổi bật và hữu ích nhất. Lá, thân và/hoặc rễ có thể được ủ cùng với các thực vật chứa MAOI để tạo ra tác dụng khi uống. Điều này có thể được coi là một dạng của Ayahuasca. Thần thoại Ai Cập liên kết cây keo với đặc tính của cây sự sống (xem thêm về Huyền thoại Osiris và Isis).
Các ancaloit trong các loài khác nhau, theo TiHKAL của Alexander Shulgin:
Acacia baileyana | 0,02% tryptamin và β-cacbolin, trong lá |
Acacia maidenii | DMT và NMT, trong cuống lá |
Acacia albida | DMT, trong lá |
Acacia confusa | DMT và NMT, trong lá, cuống lá và vỏ cây |
Acacia cultriformis | tryptamin, trong lá và cuống lá |
Acacia laeta | DMT, trong lá |
Acacia mellifera | DMT, trong lá |
Acacia nilotica | DMT, trong lá |
Acacia phlebophylla | DMT, trong lá |
Acacia podalyriaefolia | tryptamin, trong lá |
Acacia senegal | DMT, trong lá |
Acacia seyal | DMT, trong lá |
Acacia sieberiana | DMT, trong lá |
Acacia simplicifolia | DMT và NMT, trong lá, cuống lá, vỏ thân cây |
Acacia vestita | tryptamin, trong lá và cuống lá |
Các loài
Xem Danh sách các loài cây keo để biết danh sách một phần các loài thuộc chi này.
- Arbre du Ténéré
Các liên kết bên ngoài
- World Wide Wattle
- Wayne's Word Lưu trữ ngày 10-11-2015 trên Wayback Machine với chủ đề 'Những loài keo không thể quên'
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại |
|
---|