
Chi Liễu | |
---|---|
Cây liễu rủ ven hồ | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Malpighiales |
Họ (familia) | Salicaceae |
Chi (genus) | Salix L. |
Các loài | |
Khoảng 350-450, bao gồm: |
Chi Liễu (danh pháp khoa học: Salix) là một nhóm gồm khoảng 350-450 loài cây thân gỗ và cây bụi, có lá rụng vào mùa thu, thường mọc ở các khu vực ẩm ướt của vùng ôn đới và hàn đới ở Bắc bán cầu. Một số loài nhỏ hơn được gọi là liễu bụi hoặc liễu gai. Những loài liễu sống gần Bắc cực và vùng núi cao thường có kích thước nhỏ; chẳng hạn như liễu lùn (Salix herbacea) thường không cao quá 6 cm nhưng lại lan rộng trên mặt đất.
Các loài liễu dễ dàng lai ghép và hiện nay có nhiều giống lai ghép tồn tại cả trong tự nhiên và trong trồng trọt. Một ví dụ nổi bật là liễu rủ (Salix × sepulcralis), thường được trồng làm cây cảnh, là giống lai giữa thùy liễu của Trung Quốc và liễu trắng từ châu Âu.
Mô tả
Tất cả các loài liễu đều chứa dịch nhiều nước, vỏ cây có vảy nhăn chứa axít salicylic, gỗ mềm, bền nhưng dễ uốn, các cành mảnh mai và rễ lớn thường có thớ. Những rễ này đặc biệt vì kích thước, độ bền và tuổi thọ của chúng.
Các lá thường dài và hẹp nhưng cũng có thể có hình tròn hoặc ôvan, với mép lá thường có khía răng cưa. Chồi của cây là chồi bên, không có chồi đỉnh. Chúng được bao phủ bởi một vảy bắc, với hai chồi nhỏ mọc đối xứng, có hai lá nhỏ chóng rụng cũng mọc đối xứng, giống như vảy bắc. Các lá mọc so le, trừ cặp lá đầu tiên rụng khi dài khoảng 2–3 cm (1 inch). Lá đơn, có gân lá lông chim, thường có hình mũi mác thẳng. Lá thường có khía răng cưa, thuôn tròn ở phần đế và nhọn ở đỉnh. Màu lá có thể thay đổi tùy theo loài, từ vàng đến xanh lam.
Cuống lá ngắn, các lá kèm dễ thấy, giống như các lá nhỏ và tròn, đôi khi tồn tại đến giữa mùa hè. Tuy nhiên, một số loài có lá kèm nhỏ, rụng sớm và không dễ thấy.
Hoa
Các loài liễu có hoa đơn tính khác gốc, với hoa đực và hoa cái xuất hiện dưới dạng hoa đuôi sóc trên các cây khác nhau; hoa đuôi sóc này xuất hiện vào đầu mùa xuân, thường trước khi lá ra hoặc cùng với các lá đầu tiên.
Hoa đực không có đài hay tràng hoa; chỉ gồm các nhị, từ 2 đến 10 chiếc, kèm theo tuyến mật hoa và gài vào phần đế của vảy bắc sinh ra trên trục của cành hoa rủ xuống (hoa đuôi sóc). Vảy bắc hình ôvan, liền và nhiều lông tơ. Bao phấn màu hồng khi còn là chồi, sau khi nở chuyển màu vàng cam hoặc tía, dạng 2 ngăn và mở theo chiều dọc. Các chỉ nhị như sợi chỉ, thường màu vàng nhạt và nhiều lông tơ.
Hoa cái cũng không có đài hay tràng hoa; chỉ gồm một bầu nhụy đi kèm với một tuyến nhỏ, dẹt, gắn vào phần đế của vảy bắc trên trục hoa đuôi sóc. Bầu nhụy là dạng một ngăn, vòi nhụy chia thành hai thùy, chứa nhiều noãn.
Quả
Quả của liễu là quả nang nhỏ chứa nhiều hạt rất nhỏ (kích thước khoảng 0,1 mm) gắn với lông tơ màu trắng giúp việc phát tán hạt. Quả có dạng một ngăn, với hai mảnh vỏ, hình trụ và khoằm, chứa nhiều hạt nhỏ gắn với các lông tơ màu trắng, dài như lụa.
Gieo trồng
Hầu hết các loài liễu rất dễ đâm rễ từ các cành chiết hoặc khi cành gãy nằm trên đất ẩm, ngoại trừ một vài loài như liễu hoa vàng và liễu lá đào. Một ví dụ nổi tiếng về khả năng dễ trồng của liễu là câu chuyện của nhà thơ Alexander Pope, người đã nhận một cành liễu từ Tây Ban Nha gửi cho Lady Suffolk. Cành này được trồng và phát triển tốt, và người ta đồn rằng tất cả các cây liễu rủ tại Anh đều là con cháu của cây này [1].
Liễu thường được trồng dọc theo bờ sông suối để các chùm rễ của chúng kết lại với nhau, giúp bảo vệ bờ sông khỏi bị xói mòn do nước.
Vấn đề sinh thái
Một số loài liễu bị phá hại bởi ấu trùng của côn trùng cánh vẩy (Lepidoptera) - xem Danh sách các loài côn trùng cánh vẩy gây hại cho liễu.
Trước đây, nhiều loài liễu đã được trồng ở Australia để chống xói mòn dọc các nguồn nước. Tuy nhiên, hiện nay chúng được coi là loài xâm hại, và nhiều cơ quan quản lý lưu vực đang phải loại bỏ chúng để trồng cây bản địa [2]. [3].
Sử dụng
Y học
Lá và vỏ cây liễu đã được ghi chép trong các tài liệu cổ đại của Assyria, Sumer và Ai Cập như là phương thuốc điều trị đau nhức và sốt. Thầy thuốc Hy Lạp Hippocrates cũng đã mô tả các đặc tính y học của liễu vào thế kỷ 5 TCN. Các thổ dân châu Mỹ trên khắp lục địa này đã sử dụng liễu như là thành phần chính trong các phương pháp điều trị y học của họ.
Năm 1763, Reverend Edward Stone ở Anh đã nghiên cứu các đặc tính y học của liễu và báo cáo cho Hiệp hội Hoàng gia (Royal Society) về kết quả nghiên cứu của mình. Thành phần hoạt động của vỏ cây, gọi là salicin, đã được dược sĩ người Pháp Henri Leroux và nhà hóa học người Italia Raffaele Piria tinh chế thành dạng kết tinh vào năm 1828. Raffaele Piria cũng thành công trong việc tách axít này ra thành dạng nguyên chất. Salicin có tính axít khi hòa tan trong nước (pH = 2,4) và được gọi là axít salicylic vì lý do này.
Năm 1897, Felix Hoffmann đã tổng hợp salicin (trong trường hợp của ông là từ các loài Spiraea thuộc họ Hoa hồng) với ít tác dụng phụ hơn so với axít salicylic tinh chất. Thuốc mới này, chính thức được gọi là axít axetylsalicylic, đã được công ty Bayer AG (Đức), nơi Hoffmann làm việc, đặt tên thương mại là aspirin. Đây là một loại thuốc quan trọng thuộc nhóm thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs - non-steroidal anti-inflammatory drugs).
Khác
Liễu được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như trồng rừng, lọc sinh học, tạo các vùng đầm lầy nhân tạo để xử lý nước thải sinh thái, xây dựng hàng rào, cải tạo và phục hồi đất, thiết kế cảnh quan, kiểm soát xói mòn, trồng hàng cây chắn gió và lũ, cũng như cung cấp môi trường sống cho động vật hoang dã. Nó cũng là nguồn năng lượng, chẳng hạn như trong các dự án sinh khối liễu, và cung cấp gỗ cùng các sản phẩm từ gỗ.
Liễu là một trong bốn loại cây được sử dụng trong lễ hội Sukkot của người Do Thái.
Trong văn hóa
Liễu là hình ảnh quen thuộc trong nhiều nền văn hóa Á Đông, đặc biệt là trong thơ ca Triều Tiên. Kisaeng (기생) Hongrang, sống vào thời kỳ Triều Tiên (1392-1910), đã viết: như cây liễu, em sẽ luôn bên cạnh giường của anh. Bài thơ này của Hongrang về cây liễu trong mưa chiều được viết để gửi đến người tình đang xa cách.
Nguyễn Du cũng nhắc đến liễu 21 lần trong tác phẩm truyện Kiều của ông.
Hình ảnh minh họa



(Salix discolor)

(Salix caprea)

- Liễu thảo là tên gọi chung cho một số loài thuộc chi Epilobium
- Aravah, tên gọi trong tiếng Hebrew cho liễu, do vai trò của nó trong lễ hội Tabernacles của người Do Thái.
- Bình Nhưỡng, thành phố được mệnh danh là 'thành phố của liễu', thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Các liên kết ngoài
- Salix alba trên pfaf.org
- Salix purpurea trên pfaf.org
- Liễu trên Encyclopaedia Britannica 1911
- Hình ảnh Salix caroliniana tại bioimages.vanderbilt.edu Lưu trữ ngày 2012-05-02 trên Wayback Machine
- Hình ảnh Salix nigra tại bioimages.vanderbilt.edu Lưu trữ ngày 2012-05-02 trên Wayback Machine
- Keeler, Harriet L. (1900). Cây Cối Bản Địa và Cách Nhận Biết Chúng. New York: Charles Scriber's Sons. tr. 393-395.
- Newsholme C. (1992). Willows: The Genus Salix. ISBN 0-88192-565-9
- Warren-Wren S.C. (1992). The Complete Book of Willows. ISBN 0-498-01262-X
- Trích từ Every day book của William Hone, (1826) trích dẫn 'Martyn' và Saint James's Chronicle (1801) về Alexander Pope.