Cuộc chiến kiểm soát động vật gây hại của người Úc kết thúc với kết quả hài hước: không có lính Úc nào bị thương, nhưng tổn thương lớn nhất là sự xấu hổ mà đàn emu gây ra.
Khi nghĩ về động vật gây hại, bạn thường nghĩ đến chuột hoặc các loài côn trùng. Tuy nhiên, ở Úc, nơi có nhiều loài động vật có thể gây nguy hiểm, chim emu cũng là một trong số đó.
Chuột túi cũng là một loài gây hại (số lượng nhiều gấp đôi dân số Úc), nhưng chúng không đủ nguy hiểm để gây ra một cuộc chiến tranh kiểm soát động vật. Tuy nhiên, chim emu - loài chim lớn nhất Úc - lại là một trường hợp khác.


Ngay sau Thế chiến thứ Nhất, nhiều cựu chiến binh Úc và Anh được chính phủ Úc cấp đất ở Tây Úc để tái định cư. Tuy nhiên, sau Đại khủng hoảng, nền kinh tế sụp đổ, khiến cho nông nghiệp gặp khó khăn.

Trong bối cảnh kinh tế phức tạp, chính phủ không thực hiện được cam kết về lúa mì, và người nông dân đang gặp áp lực do giá lúa mì giảm.
Và giữa thời điểm căng thẳng này, chim emu đã tập hợp một lực lượng lớn gồm 20.000 con.
Những con chim emu bàng hoàng khi phát hiện ruộng lúa mì: ai đó đã trồng lúa ở đây! Thay vì hoang mạc vắng vẻ, chúng gặp những ruộng lúa vàng rực, với nước ngọt dồi dào làm cho cuộc sống của emu dễ dàng hơn. Chúng bất chấp việc nước này là nguồn nước cho gia súc của những trang trại xung quanh, chỉ cần có nước là chúng uống. Chim emu bắt đầu tấn công các vườn lúa mì, xuyên thủng hàng rào xung quanh các trang trại, mở đường cho những con emu khác; trong cảnh hỗn loạn, cảnh cắn cỏ của thỏ cũng được nhìn thấy trên cánh đồng lúa mì bát ngát. Theo thống kê, trong cơn đói điên cuồng, đàn emu này làm hỏng khoảng 100 cây lúa mỗi ngày, với mỗi cây ăn được, thiệt hại lên đến hàng triệu pound (theo giá cả thời điểm đó).
Tình trạng khẩn cấp khiến nông dân bắt đầu bỏ trang trại và đi, buộc những người ở lại phải xin sự giúp đỡ của chính phủ. Một cựu quân nhân đã chuyển sang nghề nông, gặp Ngài George Pearce, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Úc, để xin quân đội giúp đỡ phục hồi những đồng lúa bị phá hủy. Ngài Pearce chấp thuận yêu cầu.

Ngày 1 tháng 11 năm 1932, Thiếu tá C. W. P. Meredith và đội quân của ông - gồm ... hai thành viên khác - mang theo súng máy Lewis và 10.000 viên đạn xuống vùng đất canh tác tại Campion. Súng máy Lewis là một khẩu súng gốc Mỹ, đã được Anh hoàn thiện và sản xuất hàng loạt trong Thế chiến thứ nhất, mỗi dây đạn chứa 95 viên, súng này được sử dụng bởi quân đội bộ binh và trên các máy bay. Bạn có thể nghe âm thanh của súng Lewis và tìm hiểu thêm về cách hoạt động của nó trong video này.
Khi đến thực địa, họ nhận ra rằng súng đạn không hiệu quả trước thiên nhiên: tốc độ chạy nhanh và khả năng 'bảo vệ' của những con chim emu là thượng thừa, tay súng không kịp nhanh. Đáng tiếc, lớp lông dày của con emu làm cho những viên đạn đi qua chúng mà không gây thương tích. Quân Úc thất bại trong ngày ra quân, với tỷ số 0-1 cho chim emu.
Thiếu tá Meredith, bằng trí thông minh của mình, đưa ra chiến thuật mới: họ quyết định tiến hành cuộc phục kích vào ngày thứ hai. Sớm hôm đó, đội tiến vào địa điểm đóng quân, được sự hỗ trợ của một số nông dân/cựu quân nhân có vũ khí. Họ được tin tình báo rằng khoảng 1.000 con emu đang tiến lại gần đập nước gần đó, sẵn sàng chống lại loài chim gây hại.
Khi ánh sáng ban mai chiếu sáng, đàn emu hàng ngàn con đi vào vùng đất mà quân đội đã sẵn sàng. Khi đàn chim chỉ còn cách súng ống 100 mét, lính Úc bắt đầu bắn. Mọi người đều háo hức chờ đợi chiến thắng đầu tiên của quân đội trong Chiến tranh Emu, với loạt đạn được điều chỉnh đúng vào đàn emu không biết gì. Tuy nhiên ...

Trước sự ngạc nhiên của loài chim thống trị hành tinh, đàn emu - sau hai trận thắng huy hoàng - đã học được nhiều hơn về chiến thuật quân sự của con người. Trong trận chiến thứ tư, phe người phải thừa nhận: “Dường như mỗi đàn emu có một lãnh đạo - một con chim lớn màu đen cao 1 mét 8, luôn ở ngoài cùng để canh gác, cảnh báo đàn khi thấy nguy hiểm”.
Vào ngày 8 tháng 11 cùng năm đó, sau 6 ngày đấu tranh liên tiếp với đàn emu, súng máy Lewis đã phải dùng hết 2.500 viên đạn, nhưng số lượng chim emu bị tiêu diệt vẫn không rõ: một số nguồn cho biết chỉ có 50 con bị hạ gục, trong khi người dân địa phương cho rằng 'quân ta' đã giết từ 200-500 con emu. Không có người bị thương, nhưng cảm giác xấu hổ vẫn hiện hữu. Thiếu tá Meredith vẫn khẳng định sức mạnh bền bỉ của đàn emu, luôn đi về phía trước dù bị thương.

Ông thở dài: “Nếu chúng ta có một đội quân mang phẩm chất của loài emu, chúng ta có thể đối mặt với bất kỳ đối thủ nào trên thế giới. Họ sẽ có thể chịu đựng súng máy như chống lại một chiếc xe tăng”.
Một người tham gia chiến đấu khác cay đắng thốt lên: “Chỉ có một cách để giết emu, đó là bắn thẳng vào gáy khi chúng đang nhảy múa hoặc bắn trực diện khi chúng mở miệng ra. Thật khó để giết chúng đấy”.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ông George Pearce quyết định rút quân vào ngày 8 tháng 11, với chiến thắng thuộc về đàn emu. Phần là do chiến lược không hiệu quả, phần là do áp lực từ các phương tiện truyền thông, cho rằng đây là hành động tàn sát loài chim bản địa nổi tiếng của Úc.
Tuy nhiên, quân đội Úc không từ bỏ dễ dàng.

Khi quân đội rút lui, đàn emu tiếp tục tấn công. Nông dân trong khu vực lại lần nữa xin sự giúp đỡ, các cuộc tấn công của đàn emu trở nên dữ dội hơn; có thể do thời tiết khô nóng và hạn hán khiến cho đàn emu tấn công dồn dập hơn.
Chính phủ Úc lại tiến hành can thiệp. Súng máy Lewis được trang bị cho quân đội. Trên chiến trường, Thiếu tá Meredith xuất hiện một lần nữa, một phần vì thiếu kinh nghiệm chiến đấu, một phần vì emu là một trong những đối thủ khó nhằn nhất mà lính Úc từng đối mặt.
Chiến dịch bắt đầu vào ngày 13 tháng 11 năm 1932 và đạt được nhiều thành công hơn: chỉ trong 2 ngày đầu, khoảng 40 con chim emu đã bị tiêu diệt. Đến ngày 2 tháng 12 cùng năm, quân đội Úc đã hạ gục trung bình 100 con emu mỗi tuần.

Khi chính phủ gọi Thiếu tá Meredith vào ngày 10 tháng 12, báo cáo của ông cho thấy tiểu đội đã tiêu diệt được 986 con emu với 9.860 viên đạn, trung bình mỗi 10 viên đạn bắn là một con emu bị hạ gục. Ông Meredith cũng cho biết thêm khoảng 2.500 con emu khác chết vì chấn thương.
Chiến tranh Emu kết thúc, dù chỉ có phe emu thương vong, nhưng sức mạnh của tự nhiên vẫn chiến thắng cuối cùng. Người Úc không thể kiểm soát được đàn emu hung hãn và tham lam.

Vấn nạn emu tiếp tục, nông dân kêu cứu thêm 3 lần vào năm 1934, 1943 và 1948 nhưng chính phủ từ chối. Thay vào đó, chương trình giết emu có thưởng đã được triển khai từ năm 1923 và được xem là hiệu quả: trong 6 tháng năm 1934, đã phát hành 57.034 phần thưởng.

Vào cuối năm 1932, tin tức về Chiến tranh Emu lan truyền khắp nơi, những người bảo tồn động vật lên tiếng phản đối cuộc chiến tàn bạo này, coi đó là việc “tiêu diệt loài emu quý hiếm”. Họ có lý, dù loài chim emu đã chiến thắng, chúng ta mới là những kẻ bắt nạt loài chim đã sống trên đất Úc từ lâu.
Từ năm 1930 trở đi, chính phủ Úc xây rào để ngăn chim emu phá mùa màng, giống như cách ngăn chặn các loài phá hoại khác như thỏ hay chó dingo. Không có gì để lo lắng cho chim emu, với số lượng dồi dào, chúng được coi là “ít cần quan tâm”, có nghĩa là chúng sẽ không bị tuyệt chủng trong một thời gian dài.
Từ câu chuyện này, ta thấy rõ sức mạnh của loài chim lớn này. Không ngẫu nhiên mà chúng được đặt cạnh kangaroo trên phù hiệu áo giáp của quân đội Úc; những người lính Úc sẽ nhớ đến emu như một biểu tượng cho sự tiến công không ngừng nghỉ của loài chim bản địa.