Cu cườm | |
---|---|
Một con cu cườm | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (
| Aves |
Bộ (ordo) | Columbiformes |
Họ (familia) | Columbidae |
Chi (genus) | Streptopelia |
Loài (species) | S. chinensis |
Danh pháp hai phần | |
Streptopelia chinensis tigrina (Temminck, 1810) |
Chim Cu cườm (Danh pháp khoa học: Streptopelia chinensis tigrina) là một phân loài của loài chim cu gáy (Streptopelia chinensis) được tìm thấy ở Bangladesh, Miến Điện, eo Malakka, Lào, Campuchia, Việt Nam, các vùng Palawan, Kalimantan, Sumatra, Sulawesi cho đến Quần đảo Maluku ở Biển Flores. Ở Việt Nam, chúng phân bố rộng rãi khắp các vùng đồng bằng và được gọi là chim cu gáy, chim gáy hoặc đơn giản là chim cu. Chim cu được nhiều người ưa chuộng vì tiếng hót hay và được xếp vào loại tứ quý chim bao gồm yểng, mi, khuyên, có giá trị kinh tế và được hầu hết những người chơi chim Việt Nam tìm mua để nuôi.
Người đi bắt chim cu gáy còn được gọi là đi bắt cu bằng gác cu. Chim cu còn được gọi là chim cu hay chim ma mà người Raglai gọi là Katơrau, và ở Tây Nguyên có tục tạc chim ma của người Raglai tại Ma Nới với màu sắc kỳ bí trên những cánh chim ở chốn a-tâu. Chim cu là loài chim thân thiện, trong mùa lúa chín chúng thường ra đồng, ra nương để ăn mót lúa và kêu gáy vui tai.
Đặc điểm của Chim Cu cườm
Hình dạng bên ngoài
Chim gáy rất khó phân biệt giữa con trống và con mái khi chúng đã trưởng thành vì chúng đều có thể gáy và gụ nhau, ngoại hình của chúng giống nhau. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa chim trống và chim mái: vòng mắt đen của chim trống nhỏ hơn và sáng hơn so với chim mái. Lông trên trán của chim trống sáng hơn so với chim mái, chim trống cũng to và khỏe hơn, đầu to hơn và núm đầu cũng to và cục mịch hơn so với chim mái. Chân của chim trống cũng to và dài hơn. Xương dưới bụng (2 xương ghim) gần phao của chim mái cũng rộng hơn so với chim trống.
Chim trống có ngực rộng và thường ngồi trên các cành chắc chắn. Chim cu có đuôi vót, tức là ở gần bắp đuôi thì to, còn ở chót đuôi thì nhỏ, là dấu hiệu của một con chim tốt và thông minh. Chim có gián cánh, tức là có lông trắng ở trên một hoặc cả hai cánh, là dấu hiệu của một con chim tốt. Chim có móng trắng gọi là bạch đề: chỉ cần có một hoặc nhiều móng trắng, là dấu hiệu của một con chim quý hiếm. Chim trống có mỏ đỏ, là dấu hiệu của một con chim săn mồi rất dữ, và chúng chọn làm mồi để mang đi bẫy rất hiệu nghiệm.
Thói quen ăn uống
Thức ăn cho chim bao gồm ngô, thóc, vừng, thóc vẫn là thức ăn chính nhưng có thêm hạt kê, đỗ xanh, hạt lạc. Chim cu trong tự nhiên ăn đất và đất núi lửa (đất đỏ) và đôi khi liếm muối để bổ sung dinh dưỡng. Chúng cũng ăn sạn để nghiền nát thức ăn, đặc biệt là những hạt già và cứng. Chim cu cần chất vôi để tạo vỏ trứng và sữa thức ăn cho chim non, cho quá trình sinh sản và phát triển xương của chúng. Chim mái còn lấy chất vôi từ xương của chúng để cung cấp đủ dinh dưỡng cho con cái, than củi giúp tiêu hóa và sạn giúp nghiền nát hạt trong mề của chim cu. Chim cu thường hấp thu các khoáng chất vi lượng từ thức ăn.
Hành vi và sinh hoạt
Chim cu gáy sống thành đôi, một trống một mái theo chế độ đơn thê, gắn bó chung thủy. Chúng có thói quen tìm kiếm thức ăn, xây tổ, ấp trứng và nuôi con giống như chim bồ câu do cùng thuộc một họ. Mỗi cặp chim cu bố mẹ mỗi năm thường đẻ từ 8 đến 9 lứa, mỗi lần từ 1 đến 2 quả trứng. Sau 10 ngày khi trứng nở, chim mẹ sẽ tiếp tục đẻ lứa khác. Khi gặp gù đấu, con trống sẽ gù đấu. Khi gặp bạn tình, con trống sẽ gù sát đất nhiều lần, còn con mái thì hầu như không gù, trừ khi đàn chim toàn mái và không có con trống. Con trống gáy to hơn, con mái lại im lặng và chỉ gù khi cần thiết.
Chim cu cườm bắt đầu trưởng thành và sinh sản từ khoảng 5 tháng tuổi. Chúng sinh sản mỗi năm từ 8 đến 9 lứa, mỗi lần đẻ 1 đến 2 quả trứng. Con trống gáy to hơn, con mái im lặng và chỉ gù khi không có con trống trong đàn. Khi bị đe dọa, chim cu sẽ bay lên để thoát khỏi nguy hiểm. Trong lồng nuôi, chúng cũng có thể hoảng sợ ban đêm khi ngủ. Chim cu nhìn rất kém trong bóng tối nên dễ bị hoảng sợ khi nghe tiếng ồn ào hoặc thấy bóng người.
Chim cu cườm rất ít chịu nổi nhiệt độ thấp. Khi nhiệt độ xuống dưới 10 độ C, chúng có thể gặp nguy hiểm. Khi bị đe dọa trong tự nhiên, chúng sẽ bay lên để tránh. Trong lồng nuôi, chim cũng có thể hoảng sợ vào ban đêm, đặc biệt là khi chúng không thể nhìn rõ trong bóng tối.
Chăm sóc và nuôi dưỡng
Chuồng nuôi chim được thiết kế đơn giản bằng lưới sắt thành nhiều ngăn nhỏ, mỗi ngăn nuôi một cặp chim. Bên trong, tạo ổ bằng rơm hoặc chất liệu từ cây cối để chim mẹ đẻ. Quá trình ghép đôi khó khăn nhất là khi chúng còn lạ lẫm với nhau. Để ghép đôi thành công, cần đặt chim mái và chim trống cạnh nhau ít nhất một tuần để chúng quen nhau, sau đó mới ghép lồng và quan sát liệu chúng có hòa hợp không. Khi chim mẹ đẻ, không nên can thiệp vào tổ trứng mà để chúng tự ấp và nở.
Chăm sóc chim cu cũng không đơn giản. Trong mùa nóng, cần bổ sung nước điện giải và cho chim tắm 2 ngày một lần để lông chim được sạch đẹp. Trong mùa đông, cần cho chim uống thêm nước muối. Chim cu cần được chiếu sáng mặt trời vài tiếng mỗi ngày. Khi được phơi nắng, chúng thường nằm xòe cánh và đuôi dưới đất. Chim cu gáy ít bị các bệnh dịch, thường gặp vấn đề là phân nát do xung đột với các con chim khác hoặc do điều kiện thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh hoặc khẩu phần ăn không hợp lý.