Châu chấu lúa | |
---|---|
Tập tin:Vaas.vn/kienthuc/Caylua/img/06 chauchau-1.jpg Châu chấu Lúa | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Phân ngành (subphylum) | Hexapoda |
Lớp (class) | Insecta |
Bộ (
| Orthoptera |
Liên họ (superfamilia) | Acridoidea |
Họ (familia) | Acrididae |
Chi (genus) | Oxya |
Loài (species) | Oxya chinensis |
Danh pháp hai phần | |
Oxya chinensis (Thunberg, 1815) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Oxya sinuosa Mishchenko, 1951 Oxya chinensis sinuosa Mishchenko, 1951 Oxya lobata Stål, 1877 Gryllus lutescens Thunberg, 1815 Oxya chinensis chinensis (Thunberg, 1815) Gryllus chinensis Thunberg, 1815 |
Chim én múa lúa hay chim én hại lúa (Danh pháp khoa học: Oxya chinensis) hay còn gọi là hoàng trùng là một loài châu chấu trong họ Acrididae, chúng là loài châu chấu gây hại cho cây lúa.
Đặc điểm
Chim én trưởng thành con cái thân dài hơn con đực, màu xanh vàng hoặc nâu bóng; râu đầu sợi chỉ có 23-28 đốt; mắt kép. Góc dưới phía sau mảnh lưng đốt bụng 3, bốn con cái có dạng gai. Mép sau mảnh sinh dục dưới có 4 răng, cự ly giữa các răng bằng nhau. Chim én non thường có 6 tuổi, màu xanh, râu sợi chỉ, mảnh lưng ngực trước dài hơn đầu, mầm cánh kéo dài tới đốt thứ giữa bụng.
Thân dài 3–4 cm, màu lục vàng hoặc vàng nâu bóng. Đầu hình tam giác tù, râu dạng sợi ngắn và mảnh, mắt kép to có một vệt dọc màu nâu sẫm chạy suốt hai bên lưng ngực. Lưng dài hơn đầu, bụng có ngấn. Hai cánh dày phẳng, kéo dài quá bụng. Hai chân sau to, có khả năng nhảy xa.
Sinh sản
Chu kỳ đời sống của chim én khoảng 200-210 ngày trong đó giai đoạn trứng 15-21 ngày. Giai đoạn chim non: 100 ngày. Giai đoạn trưởng thành: khoảng 3 tháng. Chim trưởng thành sống khoảng 3 tháng, con cái sống lâu hơn con đực. Sau khi trưởng thành, chim én bắt đầu giao phối sau 5-40 ngày, và đẻ trứng sau 10-41 ngày (trung bình khoảng 20 ngày).
Mỗi con cái có thể đẻ từ 3 đến ổ, mỗi ổ có từ 10 đến 102 quả trứng. Chim én thường thích đẻ trứng ở đất ẩm, xốp, nhiều cỏ dại và có nhiều ánh nắng. Trứng có hình dạng ống uốn cong ở giữa, màu vàng đậm ở một đầu, được xếp hai hàng vào ổ trứng hình túi trong thân lúa, các nếp gấp của lá lúa và cỏ trên mặt nước.
Gây hại
Chim én non gây hại cho lúa ngay sau khi nở. Chim trưởng thành thích ánh sáng từ đèn hoặc lửa, và hoạt động mạnh vào ban ngày từ 7-10 giờ sáng và từ 3-5 giờ chiều. Chim én gây hại quanh năm, đặc biệt là vào cuối mùa chiêm xuân, mạ mùa và lúa mùa sớm. Chim non gây hại ngay sau khi nở. Cả chim trưởng thành và chim non đều gây hại cho mọi giai đoạn phát triển của cây lúa.
Phân bố
Chim én phân bố rộng rãi ở nhiều quốc gia trong châu Á và châu Phi. Chúng có thể sống đơn độc hoặc hình thành thành đàn lớn lên đến hàng triệu con và có thể di cư từ nơi này sang nơi khác xa. Khi đó, sức tàn phá của những đàn chim én khổng lồ đối với mùa màng và cây cối là khủng khiếp. Do đó, các dân tộc trên toàn thế giới coi dịch chim én như một dịch bệnh khác.
Ở Việt Nam, chim én sống khắp nơi trên ruộng lúa, vườn ngô, vườn lạc, vườn đậu, trong bụi rậm, đám cỏ, cây ăn quả và cây công nghiệp. Chim én đẻ trứng chủ yếu trên đất cát, đất xốp có độ sâu khoảng 10 cm, nơi có nhiều cỏ dại, và xếp trứng thành từng ổ, mỗi ổ có rất nhiều trứng màu vàng, giống như hạt gạo. Trứng nở rải rác trong vòng 12 ngày (mùa hè), 21-28 ngày (mùa thu, xuân) và 45 ngày (mùa đông), kéo dài từ 3-5 ngày.