Ó cá | |
---|---|
Một phân loài tại công viên quốc gia Nagarhole | |
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo) | Accipitriformes |
Họ (familia) | Pandionidae |
Chi (genus) | Pandion |
Loài (species) | P. haliaetus |
Danh pháp hai phần | |
Pandion haliaetus Linnaeus, 1758 | |
Phạm vi phân bố toàn cầu của ó cá | |
Phân loài | |
Xem trong bài: 4 còn sống và 2 hóa thạch | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Falco haliaetus Linnaeus, 1758 |
Ó cá hay còn gọi là ưng biển (Pandion haliaetus) là một loài chim săn mồi chuyên ăn cá, hoạt động chủ yếu vào ban ngày và có phân bố toàn cầu. Loài chim này có kích thước lớn với chiều dài hơn 60 cm và sải cánh dài 180 cm. Đặc điểm nổi bật của nó là phần lưng và sau đầu có màu nâu xám, trong khi cánh và xung quanh mắt có màu đen.
Ó cá sinh sống ở nhiều loại môi trường khác nhau và thường làm tổ gần các khu vực có nước để có đủ thức ăn. Chúng phân bố rộng rãi trên tất cả các châu lục trừ Nam Cực; ở Nam Mỹ, chúng chỉ xuất hiện trong mùa di cư mà không sinh sản. Theo đánh giá của IUCN, loài này không bị đe dọa, với khoảng 460.000 cá thể chỉ riêng ở châu Phi.
Như tên gọi của chúng, thức ăn chính của ó cá chủ yếu là cá. Chúng sở hữu những đặc điểm hình thái và hành vi độc đáo giúp săn bắt con mồi một cách hiệu quả. Với những đặc điểm này, ó cá được phân loại vào một chi riêng, chi Pandion, thuộc họ Pandionidae. Trên thế giới có 4 phân loài được công nhận. Mặc dù thường làm tổ gần nước, chúng không phải là một loài đại bàng biển.
Phân loại học
Ó cá được Carolus Linnaeus miêu tả trong công trình nổi tiếng của ông thế kỷ XVIII, Systema Naturae, và được đặt tên là Falco haliætus, thuộc chi Cắt Falco. Chi Pandion là chi duy nhất trong họ Pandionidae và chỉ bao gồm một loài, P. haliaetus. Chi Pandion được nhà động vật học Pháp Marie Jules César Savigny miêu tả vào năm 1809, và tên của chi này được đặt theo vị vua Pandion II của thành Athens trong thần thoại Hy Lạp. Tên loài haliaetus là một dạng biến thể từ tiếng Hy Lạp cổ đại ἁλιάετος có nghĩa là 'Haliaeetus/đại bàng biển'. Trong tiếng Việt, tên gọi ưng biển hay ó cá bắt nguồn từ môi trường sống biển và tập tính ăn cá của chúng.
Ó cá có những đặc điểm riêng biệt so với các loài chim săn mồi ban ngày khác. Các ngón chân của ó cá có chiều dài bằng nhau, xương cổ chân có cấu trúc dạng lưới, và móng vuốt thì tròn thay vì có rãnh. Cùng với cú, ó cá là một trong những loài săn mồi duy nhất có ngón chân cái nằm ở phía bên ngoài, trái ngược với các loài chim săn mồi khác (thường thì ngón cái ở phía bên trong), điều này giúp chúng bắt mồi hiệu quả hơn với hai ngón trước và hai ngón sau. Điều này rất hữu ích khi bắt cá trơn trượt. Mặc dù điều này thường gây khó khăn cho các nhà phân loại học, hiện nay nó được phân loại trong họ Pandionidae, từng thuộc bộ Cắt. Một số phân loại khác xếp nó cùng với diều, ưng và đại bàng vào họ Ưng, thuộc bộ Ưng hoặc bộ Cắt. Ví dụ như phân loại của Sibley-Ahlquist đưa nó vào một nhóm phân loại lớn hơn là Ciconiiformes, nhưng cách phân loại này có thể không phản ánh chính xác mối quan hệ cận ngành.
Phân loài
Ó cá có đặc điểm đặc biệt là loài duy nhất phân bố rộng khắp toàn cầu, ngoại trừ Nam Cực. Dù có nhiều loài ó cá, hiện tại chỉ có 4 phân loài được công nhận chính thức, mặc dù sự phân loại dựa trên các khác biệt không đáng kể. ITIS chỉ công nhận 2 phân loài đầu tiên.
- P. h. haliaetus (Linnaeus, 1758) là phân loài ó cá Á - Âu.
- P. h. carolinensis (Gmelin, 1788), phân bố ở Bắc Mỹ. Phân loài này có kích thước cơ thể lớn hơn, màu sắc tối hơn và lông ngực nhạt hơn so với phân loài haliaetus.
- P. h. ridgwayi (Maynard, 1887), phân bố tại các đảo Caribe. Phân loài này có lông đầu và ngực nhạt hơn so với haliaetus và không di cư. Tên khoa học của nó được đặt theo nhà điểu học người Mỹ Robert Ridgway.
- P. h. cristatus (Vieillot, 1816), sống ở vùng bờ biển và một số sông lớn ở Úc, bao gồm cả Tasmania. Đây là phân loài nhỏ nhất và đặc biệt, không di cư. Gần đây, P. h. cristatus đã được tách ra thành một loài riêng biệt do những đặc điểm độc đáo của nó.
Hóa thạch
Có hai loài đã tuyệt chủng được biết đến từ các hóa thạch. Pandion homalopteron
Mô tả
Pandion haliaetus
| |
Trục trặc khi nghe tập tin âm thanh này? Xem hướng dẫn. |
Ó cá có trọng lượng trung bình từ 0,9 đến 2,1 kg, chiều dài từ 50 đến 66 cm và sải cánh rộng từ 127 đến 180 cm. Kích thước giữa các phân loài gần như tương đồng, với trọng lượng trung bình khoảng 1,53 kg: phân loài P. h. carolinensis nặng khoảng 1,7 kg, trong khi P. h. cristatus nặng khoảng 1,25 kg. Cánh dài từ 38 đến 52 cm, đuôi dài từ 16,5 đến 24 cm và xương cổ chân dài từ 5,2 đến 6,6 cm. Phần lông trên cơ thể có màu nâu đậm, trong khi phần ức màu trắng và đôi khi có sọc nâu. Phần lông còn lại chủ yếu là trắng. Đầu có màu trắng với vòng màu tối quanh mắt kéo dài đến hai bên cổ. Đồng tử có màu vàng và nâu, còn vòng màng xung quanh có màu xanh dương nhạt. Mỏ có màu đen với phần đỉnh nhô lên có màu xanh dương, bàn chân màu trắng với móng vuốt đen. Đuôi ngắn, cánh hẹp và bốn lông vũ dài như ngón tay, với lông thứ 5 ngắn hơn tạo nên dáng vẻ rất đặc biệt.
Con trống và con mái gần như giống hệt nhau về hình dáng, nhưng con trống trưởng thành có cơ thể mảnh mai hơn và cánh hẹp hơn so với con mái. Phần lông ngực của con trống nhỏ hơn và nhạt hơn hoặc chỉ có màu trắng tinh khiết, và lông dưới cánh của con trống cũng nhạt hơn so với con mái. Ó cá non có thể dễ dàng phân biệt với các cá thể trưởng thành nhờ màu sắc của lông trên lưng, dưới bụng và các sọc trên đầu. Vào mùa xuân, ó cá non sẽ có thêm lớp lông vũ dày hơn so với lớp lông tơ trước đó.
Khi bay, ó cá thường cong cánh và rủ xuống giống như mòng biển. Chúng phát ra tiếng kêu thanh, như cheep, cheep hay yewk, yewk. Khi tổ của chúng bị đe dọa, chúng sẽ kêu lên như cheereek! Tiếng kêu của ó cá
Phân bố và môi trường sống
Ó cá là loài chim ăn thịt có phạm vi phân bố rộng thứ hai toàn cầu, chỉ sau Falco peregrinus. Chúng hiện diện trên mọi lục địa trừ Nam Cực, sinh sống ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới và ôn đới. Ở Bắc Mỹ, ó cá sinh sản từ Alaska và Newfoundland đến các bang Vùng vịnh của Hoa Kỳ và Florida, và di cư đến miền Nam Hoa Kỳ và Argentina trong mùa đông. Tại châu Âu, chúng có mặt trên bán đảo Scandinavia và Scotland vào mùa hè, nhưng không xuất hiện ở những khu vực khắc nghiệt như Iceland và Bắc Phi. Ở Úc, ó cá chủ yếu sống dọc theo bờ biển, nhưng cũng di cư không sinh sản đến Tây Victoria và Tasmania. Có khoảng cách 1000 km từ đồng bằng Nullarbor đến các điểm sinh sản ở Tây Úc. Chúng cũng có mặt trên các đảo Thái Bình Dương như quần đảo Bismarck, quần đảo Solomon và Nouvelle-Calédonie, và các hóa thạch đã được phát hiện ở Tonga, có thể là do sự xâm lấn của con người đã làm giảm khu vực phân bố của chúng ở đây. Có thể chúng từng có mặt trên các đảo Vanuatu và Fiji. Tại châu Á, chúng di cư đến Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm Myanmar, Đông Dương, miền Nam Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Philippines.
Tập tính
Thức ăn
99% chế độ ăn của ó cá là cá. Chúng thường ăn những con cá nặng từ 150 đến 300 gram và dài khoảng 25 đến 35 cm, nhưng cũng có thể ăn cá nặng từ 50 đến 2000 gram và kích thước đa dạng.
Ó cá có khả năng nhìn rất tốt để phát hiện con mồi dưới nước từ trên không. Chúng có thể nhìn thấy cá từ độ cao 10 đến 40 mét trên mặt nước. Sau khi xác định con mồi, nó sẽ lao xuống và đưa hai chân xuống nước để bắt. Ó cá được trang bị các đặc điểm giúp chúng săn mồi hiệu quả: các ngón chân có thể đảo ngược, các gai nhỏ sắc bén dưới móng tay, hai lỗ mũi có thể đóng lại để ngăn nước vào khi lặn, và các vảy mọc ngược trên móng giúp giữ chặt con mồi như móc câu.
Thỉnh thoảng, ó cá cũng săn bắt các loài động vật khác như gặm nhấm, thỏ, động vật lưỡng cư, các loài chim nhỏ, và động vật bò sát.
Sinh sản
Ó cá thường sinh sản gần các hồ nước ngọt và đôi khi ở các vùng nước lợ ven biển. Tại đảo Rottnest ở bờ biển Tây Úc, chúng sử dụng khoảng 14 địa điểm làm tổ, trong đó có từ 4 đến 7 tổ được sử dụng hàng năm. Một số tổ được tái sử dụng mỗi mùa, trong khi một số khác có thể được sử dụng liên tục trong đến 70 năm. Tổ của chúng là những đống cành cây, cỏ biển được xây dựng trên các cây cao, mỏm đá, cột điện, hoặc các công trình nhân tạo trên các đảo nhỏ ngoài khơi. Ó cá thường đạt tuổi trưởng thành và bắt đầu sinh sản từ 3 đến 4 năm tuổi, mặc dù ở những nơi có mật độ ó cá cao như vịnh Chesapeake ở Hoa Kỳ, chúng có thể chỉ bắt đầu sinh sản khi 5 đến 7 tuổi do thiếu các cấu trúc làm tổ phù hợp. Nếu không tìm được vị trí làm tổ, ó cá con có thể phải hoãn việc sinh sản. Để giải quyết vấn đề này, các trụ đôi khi được xây dựng để cung cấp các vị trí làm tổ thích hợp.
Di cư
Các phân loài ở châu Âu di cư đến châu Phi để qua mùa đông, trong khi ở Hoa Kỳ và Canada, chúng di cư đến Nam Mỹ. Một số ó cá từ Florida còn di chuyển xuống Nam Mỹ. Ó cá ở Úc thường không di cư.
Nghiên cứu từ Thụy Điển cho thấy các con cái ó cá thường di cư đến châu Phi sớm hơn so với con đực. Chúng có nhiều điểm dừng trong chuyến di cư mùa thu, và sự thay đổi về thời gian di chuyển trong mùa thu thường quan trọng hơn mùa xuân. Mặc dù chúng chủ yếu di chuyển vào ban ngày, đôi khi chúng bay vài giờ vào ban đêm, đặc biệt là qua các vùng nước, với quãng đường bay trung bình từ 260 đến 280 km/ngày và tối đa là 431 km/ngày. Các loài chim châu Âu cũng có thể di cư đến Nam Á trong mùa đông, và ó cá quanh Na Uy đã được ghi nhận ở miền tây Ấn Độ.
Hiện trạng
Ó cá có phạm vi phân bố rất rộng, riêng châu Phi và châu Mỹ đã lên tới 9.670.000 km², với tổng số cá thể toàn cầu ước tính khoảng 460.000 con. Dù không có số liệu chính xác về xu hướng số lượng cá thể toàn cầu, loài này được đánh giá không nằm trong diện giảm số lượng nghiêm trọng theo tiêu chí của IUCN (như giảm hơn 30% trong 10 năm hoặc 3 thế hệ), do đó, được xếp vào nhóm ít quan tâm. Tuy nhiên, có dấu hiệu cho thấy số lượng cá thể đang giảm ở Nam Úc, đặc biệt là tại vịnh Spencer và dọc theo hạ lưu sông Murray.
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các mối đe dọa chính đối với ó cá bao gồm việc thu lượm trứng và săn bắt con trưởng thành cùng với các loài chim săn mồi khác. Trong thập niên 1950 và 1960, số lượng ó cá giảm mạnh ở nhiều khu vực, một phần do ảnh hưởng của thuốc trừ sâu như DDT lên sự sinh sản của chúng. DDT làm suy yếu quá trình trao đổi calci, dẫn đến vỏ trứng mỏng, dễ vỡ hoặc không thể thụ tinh. Tuy nhiên, sự cấm sử dụng DDT vào đầu thập niên 1970 và giảm săn bắt đã giúp số lượng ó cá và các loài bị ảnh hưởng khác hồi phục đáng kể. Ở Nam Úc, các địa điểm làm tổ của ó cá trên bán đảo Eyre và đảo Kangaroo đang gặp nguy hiểm do hoạt động giải trí không kiểm soát và sự phát triển đô thị.
Ó cá là loài chim đặc trưng của tỉnh Nova Scotia, Canada và tỉnh Södermanland, Thụy Điển.
Trong các nền văn hóa
Theo thần thoại Hy Lạp, Nisos, vua của Megara, đã biến thành đại bàng biển hoặc ó cá để trả thù cháu gái của ông sau khi cô phải lòng Minos, vua Crete.
Nhà văn La Mã Pliny Già đã ghi chép về việc cặp ó cá cha mẹ dạy con chúng bay dưới ánh nắng và trừng phạt nếu chúng không thành công.
Một truyền thuyết khác cho biết loài chim bắt cá này được đề cập trong các tác phẩm của Albertus Magnus và được mô tả trong Holinshed's Chronicles với một chân có màng và một chân có móng vuốt.
Người Trung cổ tin rằng cá bị loài ó cá mê hoặc khi chúng lật bụng lên đầu hàng, điều này được đề cập trong cảnh 5 màn 4 của vở kịch Coriolanus của Shakespeare:
Tôi nghĩ anh sẽ đến Rome
Như ó cá đối với cá, nó chiếm ưu thế
Nhờ quyền lực tự nhiên.
(Tôi nghĩ anh sẽ đến Rome
Như ó cá đối với cá,
Sử dụng quyền lực của tự nhiên.)
Nhà thơ Ireland William Butler Yeats đã sử dụng hình ảnh ó cá xám bay lượn để diễn tả nỗi buồn trong tác phẩm The Wanderings of Oisin and Other Poems (1889).
Ó cá được mô tả như đại bàng trắng trong lĩnh vực huy chương học và gần đây trở thành biểu tượng của sự tôn vinh thiên nhiên, đã xuất hiện trên hơn 50 loại tem, được sử dụng làm thương hiệu cho nhiều sản phẩm khác nhau và tên của nhiều đội thể thao. (Chẳng hạn như Ospreys, đội rugby; Missoula Osprey, đội bóng chày; Seattle Seahawks, đội bóng bầu dục Mỹ; và North Florida Ospreys) hoặc làm linh vật (như Springs School Ospreys ở Springs, New York; đội trượt tuyết Geraldton ở Úc; Đại học Bắc Florida; Đại học Salve Regina; Đại học Wagner; Đại học Bắc Carolina tại Wilmington; Richard Stockton College; hoặc Wells International School ở Bangkok, Thái Lan).
Liên kết ngoài
- Osprey (chim) trên Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Các video, ảnh và âm thanh về ó cá trên Internet Bird Collection
- Thông tin về ó cá Lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2012 tại Wayback Machine của Birdlife International
- The RSPB: Osprey | Thông tin về ó cá ở Anh từ Royal Society for the Protection of Birds
- Tài liệu về ó cá trên ARKive
- USGS – Mẹo nhận diện Osprey Pandion haliaetus từ Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ
- Hướng dẫn ảnh trên Flickr
- Âm thanh của chim ó cá
- Dữ liệu về ó cá từ Dịch vụ Lâm nghiệp USDA
- Ó cá trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
- Ó cá trên Encyclopedia of Life
- Osprey trên Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
(tiếng Việt)
- Chim ó cá Pandion haliaetus haliaetus trên SVRVN
- Đặc điểm chính của họ chim: Pandionidae Lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016 tại Wayback Machine
Tiêu đề chuẩn |
|
---|
Bộ Ưng | ||
---|---|---|
Họ | • Sagittaridae (Diều ăn rắn) • Pandionidae (Ó cá) • Accipitridae (Họ Ưng) • Cathartidae (Họ Kền kền Tân thế giới) †Teratornithidae |
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại | |
---|---|
Pandion haliaetus |
|
Falco haliaetus |
|