Ngoại hối là gì?
Ngoại hối được định nghĩa theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là một loại tài sản ngoại tệ. Chúng được các cơ quan tiền tệ của một quốc gia sử dụng để cân bằng thanh toán tài chính. Chúng cũng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và các mục đích khác liên quan.
Tại sao cần phải có dự trữ ngoại hối nhà nước?
Nguồn dự trữ bao gồm nhiều hình thức tài sản khác nhau: tiền mặt, tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, vàng, quyền rút vốn từ IMF, quyền rút vốn đặc biệt hay còn gọi là SDR và các chứng khoán khác của chính phủ. Dự trữ ngoại hối đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ của một quốc gia vì nó có thể ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và các mục đích liên quan khác.
- Việc tăng lượng dự trữ ngoại hối giúp Ngân hàng Nhà nước có nhiều phương án và giải pháp linh hoạt hơn trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Đặc biệt là thúc đẩy sự ổn định và gia tăng giá trị đồng tiền. Điều này cũng góp phần tăng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài và dân chúng trong nước.
- Sự ổn định trên thị trường ngoại hối làm cho các nhà đầu tư nước ngoài tự tin hơn khi tham gia đầu tư vào thị trường trong nước. Điều này giúp thu hút dòng vốn ngoại tệ và tạo thêm cơ hội cho Ngân hàng Nhà nước gia tăng dự trữ ngoại hối.
- Việc tăng dự trữ ngoại hối mạnh mẽ cũng có thể nâng cao xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam trong tương lai, đặc biệt là khi khả năng trả nợ được cải thiện đáng kể.
- Trong thời gian gần đây, phí hợp đồng bảo vệ rủi ro tín dụng (CDS) 5 năm của Việt Nam đã giảm thêm từ 7,37 điểm cơ bản xuống còn 113,77 điểm cơ bản. Đây là mức thấp nhất trong năm nay, giúp chính phủ tiết kiệm chi phí vay mượn khi có kế hoạch phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế trong tương lai.
- Ngoài ra, việc Ngân hàng Nhà nước mạnh mẽ mua vào ngoại tệ và bơm ra thị trường tương ứng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng duy trì ở mức cao. Điều này giúp duy trì mức lãi suất ổn định trong giai đoạn thanh khoản thường gặp áp lực vào cuối năm.
Tổng quan về các chính sách dự trữ ngoại hối của các Ngân hàng Trung ương.
Ngân hàng Trung ương đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc ổn định giá cả, hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế và tạo việc làm. Trong lĩnh vực tài chính, vai trò của Ngân hàng Trung ương là kiểm soát nguồn cung tiền, được biết đến như chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương hoặc thực hiện chính sách tài khóa có thể tác động đến hướng đi của thị trường ngoại hối.
1. Quốc tế
Theo thống kê của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), lên tới 89,5% Ngân hàng Trung ương cho rằng chính sách can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá trong ngắn hạn và 66,7% cho thấy chính sách can thiệp nhằm đưa tỷ giá về 'giá trị cơ bản' hay còn gọi là Giá trị Căn bản. Ngoài ra, dư luận còn cho rằng can thiệp của Ngân hàng Trung ương cũng có mục đích tối ưu lợi nhuận. Kết quả cho thấy can thiệp là một công cụ hiệu quả và có tác động đến tỷ giá, với 38,9% Ngân hàng Trung ương cho biết can thiệp sẽ có tác động ngay sau vài phút, 22,2% sau vài giờ và một số còn cho rằng tác động sẽ kéo dài vài ngày.
Về chính sách can thiệp, thường Ngân hàng Trung ương sử dụng các giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn trên thị trường ngoại hối. Theo dữ liệu từ BIS, trong thập kỷ qua có 95,2% Ngân hàng Trung ương thường xuyên sử dụng giao dịch giao ngay để can thiệp, 4,8% sử dụng chỉ thỉnh thoảng, và 52,9% sử dụng giao dịch kỳ hạn và hoán đổi. Ngân hàng Trung ương Mexico đã thành công trong việc sử dụng bán quyền đồng USD để tăng dự trữ ngoại hối từ tháng 1 năm 1996.
2. Việt Nam
Về Việt Nam, Ngân hàng Nhà Nước có trách nhiệm tổ chức và điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và trong nước, cũng như mua bán ngoại hối để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Để làm điều đó, Ngân hàng Nhà Nước đã xây dựng quy chế hoạt động thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng và chính sách can thiệp ngoại hối. Chính sách can thiệp này có hai giai đoạn, trước và sau khi ban hành Nghị định 86 và quản lý dự trữ ngoại hối.
Chính sách dự trữ ngoại hối giai đoạn từ 1991 đến 1999
Năm 1991, Qũy điều hòa ngoại tệ được thành lập để Ngân hàng Nhà Nước quản lý, nhằm bình ổn tỷ giá VND/USD và đáp ứng nhu cầu thanh toán nhập khẩu theo kế hoạch Nhà Nước và các nhu cầu khác khi cần thiết.
Năm 1994 được ghi nhận là thời điểm thị trường ngoại hối phát triển mạnh mẽ hơn, Ngân hàng Nhà Nước đã mua nhiều ngoại tệ hơn từ thị trường ngoại hối liên ngân hàng, làm tăng mạnh số dư của Quỹ điều hòa ngoại tệ. Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhà Nước cũng đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường và giải quyết nhu cầu thanh toán vãng lai, hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực Châu Á vào năm 1997.
Chính sách dự trữ ngoại hối từ năm 1999 đến nay
Theo Nghị định số 86 của Chính phủ về quản lý dự trữ ngoại hối ban hành năm 1999, Việt Nam chuyển sang giai đoạn quản lý dự trữ ngoại hối theo quy định quốc tế. Nghị định này tái cấu trúc Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng. Từ đó, Ngân hàng Nhà Nước sử dụng ngoại tệ từ Quỹ này để can thiệp và giảm áp lực lên đồng Việt Nam trong điều kiện mất cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Hiện tại, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục. Quy mô dự trữ ngoại hối Nhà Nước đã tăng lên gần 110 tỷ USD, gấp gần 10 lần so với năm 2010 và gấp 4 lần so với năm 2015, và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới phù hợp với quy mô kinh tế.
Xu hướng dự trữ ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam năm 2023
Với áp lực tỷ giá USD/VND vẫn đang gia tăng vào cuối năm 2022, Ngân hàng Nhà Nước dự kiến sẽ tiếp tục điều chỉnh giảm giá trị của đồng VND trong năm 2023 để bảo vệ dự trữ ngoại hối. Từ đầu tháng 10, giá trị của VND đã giảm 4.1%, và gần đây Ngân hàng Nhà Nước đã mở rộng biên độ tỷ giá tham chiếu hàng ngày của đồng Việt Nam từ 3% lên 5%.
Trong báo cáo cập nhật về biến động thị trường tiền tệ tháng 10, số liệu thống kê cho thấy tỷ giá trung tâm đã tăng mạnh 1.3% so với cuối tháng 9, cao hơn so với mức tăng 1.1% trong 9 tháng đầu năm. Trên tháng 10, giá bán USD của Ngân hàng Nhà Nước đã tăng tổng cộng 3 lần, với tổng mức tăng 1.170 đồng, cao hơn nhiều so với mức điều chỉnh 550 đồng trong 3 lần tăng trước.
Trên thị trường tự do, tỷ giá đã tăng thêm 3.8% trong tháng 10. Tuy nhiên, khác với các giai đoạn trước, việc tăng tỷ giá trên thị trường tự do có phần chậm hơn và là kết quả của các điều chỉnh chính sách tỷ giá từ Ngân hàng Nhà Nước.
Kể từ đầu năm đến nay, đồng VND đã giảm giá khoảng 8.8% trên thị trường chính thức, diễn biến này đang dần đi vào kịch bản xấu được các chuyên gia dự báo là có thể mất giá 10% trong cả năm 2022.
Tỷ giá USD/VND đã giảm trong tháng 11 và đầu tháng 12 chủ yếu do đồng USD suy yếu mạnh trên thị trường thế giới. Tỷ giá USD/VND đã giảm xuống còn 24.000 vào ngày 05/12 (giảm 3,5% so với cuối tháng 10; tăng 4,9% so với đầu năm). Các kỳ vọng về việc Fed có thể giảm tốc độ tăng lãi suất trong tương lai, cùng với nguồn cung USD ổn định từ giải ngân vốn FDI, thặng dư thương mại và kiều hối có thể hỗ trợ cho tỷ giá USD/VND trong thời gian tới theo đánh giá của Mytour.
Đối chiếu chi tiết hơn, chỉ số đồng USD gần như đi ngang trong suốt thời gian qua, giao dịch trong khoảng 110-113 từ đầu tháng 10 đến nay. Trong khi đó, đồng Nhân dân tệ (NDT) đã mất giá khoảng 2,1% trước và sau kỳ họp Đại hội Đảng.
Với tình hình Mỹ liên tục tăng với mức cao, mức biên độ tỷ giá từ 3% - 5% có thể sẽ không đủ. Do đó, nguy cơ giảm dự trữ ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước vẫn còn và có thể tiếp tục giảm để bảo vệ giá trị của VND. Trong tình hình đó, Ngân Hàng Nhà Nước có thể cần thực hiện các biện pháp can thiệp tiếp theo khi tỷ giá thị trường quay lại trong biên độ cao hơn, việc hạ giá trị VND ít nhất 1% có thể sẽ cần thiết để bảo vệ dự trữ ngoại hối USD.